Phê
Bình Văn Học Thế Hệ 1932
Thanh Lãng
Thanh Lãng
Phần 3
NHỮNG
VỤ ÁN VĂN HỌC THẾ HỆ 1932
Trên đây, tôi tạm phát vẽ sinh hoạt phê bình dưới
hình thức phe phái, trong khoảng từ 1932 đến 1939 hay 1940. Có lẽ chưa có thời
nào sinh hoạt văn học có vẻ hào hứng, động đạt cho bằng trong khoảng thời gian
này.
Để tóm tắt, chúng ta có thể ghi nhận sinh hoạt phê
bình văn học, hồi đầu thế hệ 1932 như là những vụ án văn học.
Chưa bao giờ báo chí Việt Nam bút chiến với nhau dữ
dội như ta thấy ở chương ba ở trên đây. Các cuộc bút chiến này, trọng tâm có lẽ
là sự cạnh tranh nghề nghiệp, tranh dành độc giả, nhưng cũng gián tiếp đặt ra
được nhiều vấn đề, làm sáng tỏ nhiều lập trường văn nghệ, sửa chữa được nhiều lộn
xộn trong nghề viết văn. Các báo chia thành hẳn bốn khối như tôi đã trình bầy ở
trên : khối A của các nhà mệnh danh là Cựu học với các tờ báo ra đời từ 1932
hay trước năm 1932 mà còn hoạt động cho tới năm 1934 ; khối B của nhóm Tự Lực
Văn Đoàn với Phong Hoá và Ngày Nay ; khối C của các báo ra đời từ 1934 trở đi,
đối lập, phản kháng lại Tự Lực Văn Đoàn ; khối D của nhóm mác-xít với các ông Hải
Triều, Hồ Xanh, Bùi Công Trừng…
Mặc dầu được Đông Dương tạp chí và Nam Phong tạp chí
cố gắng đứng ra giàn hoà trong một thời gian khá lâu, phe mới cũ cũng bất đắc
dĩ phải cụng nhau. Cuộc đụng độ bắt đầu khai mào vào khoảng từ 1931 trở đi.
Phan Khôi, từ khoảng 1931 trở đi, đã lái Phụ Nữ tân văn, đi vào con đường canh
tân. Nhiều cây bút, mà đặc biệt là cây bút Phan Khôi, bắt đầu tấn công nền cựu học,
tấn công Nho giáo, kết án chế độ đại gia đình, công kích kịch liệt chế độ Tam
Cương. An Nam tạp chí của Tản Đà nhảy vào chiến trường. Hai nhà nho, nhà nho
Nguyễn Khắc Hiếu và nhà nho Phan Khôi, giao tranh ác liệt trong một thời gian
khá lâu. Sau này, năm 1932, xem ra Đông Thanh tạp chí và Văn Học tạp chí, như
có vẻ đứng về phe Tản Đà, để phản đối những kết án của Phan Khôi đối với nền đạo
đức Đông phương, nếu không bằng các bài bút chiến trực tiếp thì cũng bằng các
bài trình bày cái hay cái đẹp của đạo đức Đông phương.
Nhưng từ khi Phong Hoá ra đời, thì một mặt trận đã
giàn ra, đẩy mạnh chiến dịch mà Phan Khôi chỉ mới khai mào. Cuộc tranh luận mới
cũ được Phong Hoá đặt lên làm tôn chỉ cho cơ quan ngôn luận, và là mệnh lệnh mà
mọi nhà văn thuộc văn phái Tự Lực phải tuân theo. Chẳng những người ta dùng nghị
luận để kết án đạo đức cũ mà còn dùng tranh khôi hài, thơ trào phúng, kịch hí lộng,
tiểu thuyết tranh đấu để đánh thẳng vào nền cựu học, với ý chí quyết liệt là hạ
bệ được nền cựu học.
Phan Khôi phê bình Nho giáo
Đầu năm 1930, Trần Trọng Kim cho xuất bản cuốn I của
Bộ Nho Giáo của ông, trình bày khá cặn kẽ về thân thế, sự nghiệp và học thuyết
Khổng Tử cùng trường phái nho giáo.
Phan Khôi đã đọc Nho giáo của Trần Trọng Kim rất kỹ
lưỡng và trên Phụ Nữ tân văn số 54, ngày 29-5-1930, sau khi ca ngợi công lao của
Trần Trọng Kim, đã công kích ông này lầm lẫn Khổng Học với Tống Nho.
Sau bài đả kích trên, không còn đợi Trần Trọng Kim
trả lời, Phan Khôi viết một thôi một hồi về nho giáo, khi xa khi gần, vẫn có vẻ
công kích tác giả Trần Trọng Kim như ta thấy trong những bài như : Cuốn
sách nho giáo gợi ý cho chúng tôi, nó bảo rằng : người Việt Nam phải viết
chữ quốc ngữ cho đúng (P.N.T.V. số 56, 12-6-1930), Người mở đường cho luân
lý học Á Đông, Khổng Tử và cái thuyết " chánh sách " của Ngài
(P.N.T.V. số 57, 19-6-1930). Thuyết chánh danh đính chính lại cái tên xưng hô của
người Việt Nam (P.N.T.V. số 58, 28-6-1930 và số 59, 3-7-1930).
Trần Trọng Kim trả lời Phan Khôi
Trần Trọng Kim đã theo rõi công việc làm của Phan
Khôi và để tâm suy nghĩ về những lời lẽ công kích của ông. Chính vì vậy mà Trần
Trọng Kim đã lên tiếng trả lời Phan Khôi nơi bài " Mấy lời bàn với
Phan tiên sinh về Khổng giáo " (P.N.T.V. số 60, 10-7-1930). Trong bài
này, Trần Trọng Kim có chịu là Phan Khôi có lý ở nhiều điểm, nhưng không trả lời
đúng vào cái điểm mà Phan Khôi đã công kích ông.
Phan Khôi viết bài cảnh cáo các nhà học
phiệt
Có lẽ vì vậy mà trên Phụ Nữ tân văn số 62,
24-7-1930, trong bài " Cảnh cáo các nhà học phiệt ", cho dù mục
đích là để tấn công Phạm Quỳnh, Phan Khôi cũng vẫn trách khéo cả Trần Trọng Kim
như là cố ý lẩn tránh vấn đề.
Phan Khôi mời Trần Trọng Kim đến chơi
nhà Mr Logique
Và sau đấy, trên Phụ Nữ tân văn số 63, 31-7-1930,
nơi bài " Mời Trần Trọng Kim tiên sanh đến nhà Mr Logique chơi, tại
đó, chúng ta sẽ nói truyện ". Phan Khôi vạch rõ những điểm mà Trần Trọng
Kim đã né tránh không chịu trực tiếp trả lời, đồng thời Phan Khôi cũng chê
trách Khổng Tử và Mạnh Tử là thiếu óc luận lý.
Trần Trọng Kim mời Phan Khôi trở về
nhà học ta mà nói truyện
Lần này, thì Trần Trọng Kim không còn giữ yên lặng nữa.
Trên ba số báo, Trần Trọng Kim đã lên tiếng trả lời Phan Khôi : bài "
Mời Phan Khôi tiên sinh trở về nhà học của ta mà nói truyện " (đăng
lên liên tiếp hai số báo, số 71, 25-9-1930, và số 72, 2-10-1930) với
bài " Khổng giáo với khoa học ", số 74, 16-10-1930). Trần Trọng
Kim đã tỏ ra phục thiện, chịu lỗi là đã sơ ý mà trở thành bông lông không trả lời
đúng vào các điểm mà Phan Khôi công kích ông. Nhưng rồi Trần Trọng Kim cũng
minh xác với Phan Khôi nhiều điểm, nhất là điểm Phan Khôi trách triết gia đông
phương thiếu óc suy luận khoa học.
Vấn đề Phan Khôi nêu ra năm 1930, và đến năm 1932,
khi cho tái bản Nho giáo, Trần Trọng Kim đã cho sửa chữa, thì Ngô Tất Tố lại
khơi lại để công kích Trần Trọng Kim năm 1940.
Cuộc tranh luận này cho ta thấy hai nhà học giả họ
Phan và họ Trần đã có thái độ trí thức rất đáng phục. Chính thái độ trí thức ấy
đã giúp làm sáng tỏ nhiều vấn đề triết học bấy lâu bị thiên hạ hiểu rất mu mơ.
4
- Vụ Án Tản Ðà - Phan Khôi
Phan Khôi công kích " Cái cười của Con Rồng Cháu Tiên
"
Nhân đọc cuốn tiểu thuyết " Cay đắng mùi đời
" của nhà văn Hồ Biểu Chánh, Phan Khôi đã viết một bài đại luận về cái cười
thường khi rất bỉ ổi, tàn nhẫn của người Việt Nam mình. Bài đó ông đề nó là
" Cái cười của con rồng cháu tiên " (P.N.T.V. số 84, 28-5-1931). Phan
Khôi đã vạch ra cái khéo léo, tài tình của ngòi bút tả chân Hồ Biểu Chánh trong
việc vẽ ra cái cười man rợ, khả ố, đê tiện của cái nòi giống tự xưng là "
Con rồng cháu tiên ".
" Bộ " Cay đắng mùi đời " hẳn đã có
nhiều người nói đến và thấy trong đó tả những gì, khi tôi đọc chắc tôi cũng thấy
như người ta. Một bộ tiểu thuyết vẽ ra nhân tình thế thái. Nhất là sự khốn nạn
của kẻ nghèo, thật là có ý vị thâm trầm lắm. Vậy mà những điều đó tôi để ra
ngoài hết, khi tôi đọc nó tôi chỉ có một cái cảm tưởng về cái cười trong truyện
mà thôi. Hẳn tác giả " Cay đắng mùi đời " là ông Hồ Biểu Chánh cũng
phải nực cười mà cho tôi là tọc mạch ". (P.N.T.V. số 84, 28-5-1931). Trong
rất nhiều thí dụ về trường hợp lố bịch của cái cười Việt Nam mình, Phan Khôi đã
đưa ra một so sánh :
" Có một phần đông người Pháp ở đây ta hằng
ngày thấy họ cũng có thể chiêm nghiệm được một dân tộc Pháp. Ví dụ như gặp khi
trời mưa, đường trơn, có người nào đó bất kỳ đi vô ý mà trợt té, bấy giờ có năm
ba người Pháp đứng đó họ có cười hay không ? Tôi, và nhiều người như tôi nữa
dám chắc rằng họ chẳng những không cười mà còn chạy lại để đỡ người bị té ấy
lên nữa. Còn như Con Rồng cháu Tiên ta, ai không biết chớ tôi, tôi cầm chắc rằng
trước khi chạy lại đỡ, họ phải cười một chặp cho no nê đã ". (P.N.T.V. số
84, 28-5-1931).
Phan Khôi công kích Tống Nho
Sau khi, với giọng bông đùa, Phan Khôi đã dám đưa ra
mà công kích cái cười khả ố, bần tiện của cả một cái nòi giống tự xưng là Con rồng
Cháu tiên, thì, đến ngày 13-8-1931, trên Phụ Nữ tân văn số 95, ông lại cay nghiệt
chửi tùm lum cái phong tục man rợ mà người ta xưng tụng là thủ tiết trong xã hội
Trung Hoa và Việt Nam.
Theo Phan Khôi, cái luật bắt người đàn bà góa chồng,
ở vậy, thủ tiết thờ chồng là một luật rất man rợ, thoái hoá, người Trung Hoa đã
bỏ nó từ lâu rồi mà người Việt Nam mình cứ giữ nó khư khư để đàn áp người đàn
bà. Phan Khôi muốn đổ cái lỗi ấy cho Tống nho, chứ thực tình Khổng nho chẳng có
dạy " cái điều xằng bậy " ấy…Mà ngay đến Tống nho hồi đầu bên Trung
Hoa cũng chẳng ai coi cái luật thủ tiết là quan trọng. Phan Khôi kể :
" Các nho gia nhà Tống trước Trình Hy đối với
phụ nữ có ý rất khoan thứ, nghĩa là không bắt buộc họ phải thủ tiết, chịu thiệt
thòi cả đời như Phạm Trọng Yêm (sanh năm 989) có lập ra cái nghĩa trung trang,
trong tờ khoán ước có trích ra một phần ruộng để giúp đàn bà cải giá, còn đàn
ông tái thú lại không giúp. Ông có con trai là Phạm Thuận Hựu chết non để lại một
người vợ góa, sau đó, học trò ông là Vương Đào góa vợ, ông bèn đem người dâu của
mình mà gả cho, vả lại mẹ ông Phạm Trọng Yêm trước kia cũng cải giá cho một người
họ Chu. Ông theo mẹ về ở với cha ghẻ, đổi họ tên là Chu Thuyết đến sau đỗ đạt rồi
ông mới lại theo họ Phạm. Phạm Trọng Yêm là một bậc danh hiền buổi Tống sơ, một
nhân vật lớn trong lịch sử mà cũng không hề cho sự cải giá là phi lệ, không hề
bắt đàn bà goá thủ tiết; cho đến mẹ ông cải giá, ông cũng chẳng hề lấy làm sỉ
nhục gì. " (P.N.T.V. số 95, 13-8-1391).
Chính vì vậy, mà Phan Khôi xem ra có thù với Tống
Nho, nên hễ có dịp là ông đả kích bọn họ. Lần này chẳng hiểu là lần thứ mấy. Chẳng
thế mà ngay ở đoạn đầu số báo này (P.N.T.V. số 95, 13-8-1391) ông phải nhắc đến
việc ông đã từng hô hào chống Tống Nho ở số 89 Phụ Nữ tân văn :
" Trong bài " Lại nói về tam cang với ngũ
luân " ở Phụ Nữ tân văn số 89, tôi có nói rằng : " Trong cái vòng
luân lý đạo đức tôi muốn lấy Khổng Mạnh làm thầy, mà đồng thời tôi cũng muốn phế
truất Hán Nho và Tống Nho ". Tôi nói thế không phải nói bậy đâu. Hán nho
như cái thuyết tam cang của họ mà tôi đã bác đi trong mấy bài trước đó, đáng phế
truất là đường nào. Tống Nho lại còn nhiều điều không hiệp với Khổng Mạnh mà
làm hại cho ta hơn nữa tức như cái luật cấm cải giá là bất công, vô đạo, cướp mất
quyền lợi của đàn bà mà không bổ ích gì cho phong hoá, ta nên phế trừ đi là phải.
"
Thế rồi, trong phần kết của bài Tống nho này, ông hô
hào chị em phụ nữ hãy nên " phế trừ " cái tục " trái tính trời
" ấy đi :
" Tôi lấy làm lạ, cái kêu bằng cái " tiết
đó " không phải tánh trời sanh thì sao lại đem nó để càn lên trên cái do
tính trời sanh ? Tôi thì cứ giữ mực quê quê thiệt thiệt, căn cứ ở câu : "
Thực sắc thiên tánh " của Mạnh Tử mà nói rằng : Hể đàn ông chết vợ thì lấy
vợ khác, đàn bà chết chồng thì lấy chồng khác. Còn như cặp vợ chồng nào có cái
ái tình đặc biệt, một người chết đi một người đành ở vậy, cái thì tuỳ ý họ, xã
hội không ép buộc gì. Đến như nói cái thứ hai của tánh trời, gặp lúc đáng bỏ phải
bỏ, thì, đã cấm đàn bà cải giá xin cũng cấm đàn ông tái thú luôn.
" Trong phụ nữ ta có nhiều người chồng chết,
ở trong cảnh ngộ rất đáng thương, buồn rầu đủ mọi trăm thứ, vậy mà nói đến truyện
cải giá, sợ mang tiếng, nhất định không thì thôi. Có người bóp bụng cắn răng
cũng giữ được trót đời ; nhưng có người khôn ba năm dại một giờ, thì ra mang
cái xấu lại còn hơn cải giá. Lại thường thấy bà goá nào có máu mặt thì bọn điêu
thoa trong làng trong họ lập mưu mà vu hãm cho, để mong đoạt lấy gia tài. Những
sự đó đều là chịu ảnh hưởng của cái luật cấm cải giá mà ra ; vậy thì nó chỉ làm
hại cho phong hoá thì có chớ có bổ ích gì đâu ? Bởi vậy ta nên phế trừ cái luật
ấy đi ; từ rày về sau, trong óc chúng ta, cả đàn bà và đàn ông Việt Nam đừng có
cái quan niệm ấy nữa " (P.N.T.V. số 95,13-8-1931).
Tản Đà khai chiến với Phan Khôi
Hai bài của Phan Khôi viết ra, một bài vào tháng 5,
một bài vào tháng 8 năm 1931, sẽ phải tiếp nhận những nhát búa nặng nề của Tản
Đà bắt đầu từ tháng giêng năm 1932. Thực vậy, trên An Nam tạp chí, bắt đầu từ số
26, 23-1-1932, Tản Đà bắt đầu khai chiến dữ dội.
Nơi đây, ta không còn thấy Tản Đà nhà thơ lãng mạn,
đôn hậu, mơ màng nữa, mà ta thấy ông khi thì là một quan toà, khi thì là một
đao phủ nữa. Chính vì vậy, mà ta thấy ngay ở phần mở bài thứ nhất trong loạt
bài được chọn bằng một tiêu đề rất đặc biệt " Một cái tai nạn lưu hành ở
Nam Kỳ : Phan Khôi ", Tản Đà mở đầu cuộc chiến của ông như thế này :
" Cứ những lời của ông Khôi viết ở trong tờ Tân
Văn có nhiều những tính chất tầm bậy. (như bài " Cái cười của Con Rồng
Cháu Tiên) ; mà hại cho phụ nữ về phần nhiều ( như lời bài kích Tống Nho về câu
" ngạ tử sự thậm tiểu, thất tiết sự thậm đại "). Sự hại đó, không phải
là ông Khôi có định chí làm hại ; chỉ là ông quá dụng sức về nhẽ " ăn cây
nào rào cây ấy " viết bài cho Tân Văn phụ nữ thời chiều theo tâm chí của
phần nhiều phụ nữ đó mà thôi. Phần nhiều phụ nữ tân thời nay muốn tự do, muốn
giải phóng, ông Khôi phun giải phóng, phun tự do. Đối với các độc giả có được
lòng thời tờ Tân Văn mới phát đạt ; tờ Tân Văn có phát dạt thời giá mua bán bài
mới cao. Tờ Tân Văn được lòng độc giả vì ai, thời giá bài người ấy tất phải đắt.
Huống chi chủ nhân là Mme Nguyễn Đức Nhuận tức cũng lại là một vị độc giả phụ nữ
tân thời. Ngoài chiều ý người mua báo, trong chiều ý người mua bài, ông Phan
Khôi mới hết sức viết những lời tầm bậy. Lời tầm bậy đã in lên báo, thời chiều
ai mà tức thị hại ai. Đó là do tâm tình mà những lời viết báo của ông Khôi
thành ra làm hại cho phụ nữ lưu vậy " (An Nam tạp chí số 26, 23-1-1932).
Theo Tản Đà, việc bài trừ, " giết bỏ "
Phan Khôi, chẳng phải là điều thích làm thì làm mà là một bổn phận của "
anh em sĩ phu trong phái tân học " :
" Thuộc về phần riêng của từng người, thời nghĩ
như ông tú Khôi cùng tôi, có thể cũng kể là hạng sĩ phu về bên Hán học trong nước
ta ở cái thời kỳ hiện tại ; nếu ông Khôi mà có làm điều không phải với công
chúng, tôi cùng các người khác trong Hán học đều không được tự bảo mình là vô
can. Cho nên muốn bài trừ những lỗi tầm bậy của ông Khôi , tức là tôi không có
tự vì một phần riêng, mà vì cả các anh em sĩ phu trong phái Hán học.
Nay xin hãy có lời báo cáo để Phụ Nữ tân văn và các
bạn phụ nữ trong Nam cùng biết trước, công việc bài trừ còn nhiều, cần phải tra
xét tường bạch, và cũng không phải việc cấp bách ; xin ai nấy ung dung chờ coi
". (An Nam tạp chí số 26, 23-1-1932).
Sau khi đã hứa như vậy ở số 26, ra ngày 23-1-1932, Tản
Đà đã giữ lời hứa. Ông viết một thôi ba bản cáo trạng rất gay gắt để buộc tội
Phan Khôi trước toà án công luận : bản cáo trạng thứ nhất đăng trên An Nam tạp
chí số 29, 20-2-1932, buộc tội Phan Khôi đã xúc phạm đến cả tổ tiên trong bài
" Cái cười của Con Rồng Cháu Tiên ", hai bản cáo trạng sau, cũng đăng
trên tạp chí trên, ở các số 34, ngày 26-4-1932 và số 37, ngày 16-4-1932) (1).
Ông tự lập lấy tòa án : " Nay tôi xin, trước mặt
quốc dân, đỡ lời công chúng, quyền làm sự thẩm án thuộc về toà sơ cấp, mong ai
nấy cùng nghe " (An Nam tạp chí số 29, 20-2-1932).
Tản Đà dựa vào lai lịch bốn chữ " Con Rồng Cháu
Tiên " là bốn chữ cực cao, cực quí chỉ cả tổ tiên của một dân tộc và chỉ cả
quốc dân có một lịch sử oai hùng để mà kết án. Phan Khôi nhục mạ chẳng riêng gì
người ta đời nay, mà còn nhục mạ cả nòi giống tổ tiên ta xưa kia nữa. Ông tuyên
án Phan Khôi đáng xử trảm ; nhưng để Phan Khôi được quyền minh oan, nên Tản Đà
tạm cho ông được hưởng bản án " trảm giam hậu ".
Nhưng đấy chỉ mới là một tội. Phan Khôi còn nhiều tội
khác mà Tản Đà tiếp tục đưa ra toà, đặc biệt là cái tội làm đồi trụy phong hoá,
Tản Đà mở đầu bản xử án thứ hai :
" Trong Phụ Nữ tân văn số 95, ra ngày 13 Aout
1931, ông Phan Khôi có viết bài " Tống Nho với phụ nữ " viết đại ý ở
dưới đề mục rằng :
" Cái luật cấm cải giá là bất công, vô đạo, cướp
mất quyền lợi đàn bà mà không bổ ích gì cho phong hoá nên phế trừ đi là phải
".
" Xin cứ những lời tầm bậy trong bài ấy, chỉ
trích và thuyết minh ra, để phụ nữ trong Nam và chư vị độc giả cùng nghe , rồi
sẽ kết tội án Phan Khôi ở cuối " (An Nam tạp chí số 34, 26-4-1932).
Tản Đà cho rằng việc thủ tiết của người đàn bà là một
phong tục cao cả có từ đời Khổng Tử chứ đâu phải chỉ mới có từ đời Tống :
" Cứ vậy ngẫm ra, tự thấy rằng một đạo trinh tiết
của đàn bà Á đông, thực do thượng cổ truyền lại, gốc ở một chữ trong kinh Dịch
nẩy mầm ra, đời đời nối tiếp vun bồi, gây thành cái phong hoá tuyệt thanh quí
trong nhân loại. Nay Phan Khôi dám cho những sự đó là đàn bà chịu sự thiệt
thòi, mà lại qui cái ảnh hưởng trực tiếp là chịu của Tống nho. Thực là loạn
ngôn hoặc chúng vậy " (An Nam tạp chí số 34, 26-4-1932).
Tản Đà kết án Phan Khôi là đồi trụy phong hoá và ví
Phan Khôi với bọn hạ lưu đã dám nói ra những lời xàm xỡ , Tản Đà viết :
" Gian thay ! ông Phan Khôi, ác thay ! ông Phan
Khôi, tiểu nhân thay ! ông Phan Khôi.
" Cứ mấy lời luận lý của ông Khôi, nếu không hết
sức bài trừ, mà để cho ông được hành những cái gian, cái ác, cái tiểu nhân, thời
nay ông đã viết ra bài này, thời mai ông chắc viết ra bài khác, ngấm ngầm truyền
bá vào trong tâm lý một số người trong xã hội, xui khiến cho gái bỏ trinh tiết,
giai bỏ trung hiếu ; phàm những cái tốt đẹp trong đạo làm người , như nhân, từ,
tín, hậu, lễ, nghĩa, liêm, sỉ đều bị những lời luận lý vô đạo ấy làm cho đến mất
hết giá trị. Nếu lo cho quá, thời một phần nhân đạo chẳng sẽ do đó mà dần dần lấn
lún đến trở ra cầm thú cẩu chệ sao ? Nguy thật thay !
" Cùng hai câu thực ý của ông Khôi.
" Ông Khôi nói :
" Hễ đàn ông chết vợ thì lấy vợ khác ; đàn bà
chết chồng thì lấy chồng khác ".
" Xưa nay, đàn ông chết vợ mà họ lấy vợ khác,
đàn bà chết chồng mà lấy chồng khác, vẫn là sự thường trong thế tục ; có cần
chi đến những nhà học vấn phải ra công luận lý mà khuyên bảo cho chúng ru ?
" Đàn ông hoá vợ mà ở yên không lấy vợ khác nữa,
hạng người ấy gọi là nghĩa phu, từ xưa đến nay thật ít thấy trong sử sách. Đàn
bà hoá chồng mà ở yên không đi lấy chồng khác nữa (người còn trẻ tuổi) hạng người
ấy gọi là tiết phụ, so với nghĩa phu thực có số nhiều hơn. Song tóm tự nghìn
xưa, nếu có thể cộng được toàn số đàn bà hoá chồng còn trẻ tuổi mà tính xem,
chưa dễ nghìn ai mong có một. Vậy thời những người tiết phụ kia sinh ở nhân
gian thế, dẫu chưa hẳn như phụng hoàng, kỳ lân trong phi cầm cẩu thú, thời cũng
là hòn ngọc ở núi đá hạt châu nơi bể chai. Đời đời vua chúa ơn ban " Tiết
hạnh khả phong ". Cũng vì là vật quí của đời, đời nên biết quí vậy.
" Tục thuần hậu mỗi ngày càng kém xưa, giá
trinh tiết mỗi ngày càng hiếm có ; vật quí của đời lại đến lúc đời không biết
quí, phong dao lý ngữ, nhiều câu nghe thấy đã thương tâm :
" Lẳng lơ chết cũng ra ma
Chính truyên chết cũng khiêng ra đầy đồng "
-" Ông chết thì thiệt thân ông,
" Bà tôi sắp sửa lấy chồng nay mai "
-" Bà chết thì thiệt thân bà,
" Ông tôi sắp sửa lấy ba nàng hầu "
Chính truyên chết cũng khiêng ra đầy đồng "
-" Ông chết thì thiệt thân ông,
" Bà tôi sắp sửa lấy chồng nay mai "
-" Bà chết thì thiệt thân bà,
" Ông tôi sắp sửa lấy ba nàng hầu "
" Ba câu ca dao đó, ngẫm như một câu dẫn ở trước
nhất, thực là do phong hoá suy đồi tự ở mồm những kẻ hạ lưu xướng ra. Hai câu dẫn
thứ hai thứ ba ở sau, hoặc giả còn là có ai đó, vì cái bụng thương cho đời, mới
thoát ra những lời chua xót. Tôi tuy chưa dám định nghĩa ; song tóm lại chỉ đều
là những câu ca dao mà không phải là lời luận lý. Lập thành thế, luận thành lý,
thời mới thấy như hai câu của ông Khôi là thứ tư.
-" Đàn ông chết vợ thì lấy vợ khác.
" Đàn bà chết chồng thì lấy chồng khác
"
" Hai chữ " thì " đó, ngẫm ra cho kỹ
không có tình nghĩa, chút tơ vương ; chính cũng như trong xóm Bình Khang thường
có câu " Cuốn chiếu nhân tình sạch " vậy ! Hai câu đó trước lúc chưa
đem đăng báo, ông Khôi hoặc có cùng ngồi đàm luận với hai vị chủ nhân và chủ
nhiệm tờ báo Phụ Nữ tân văn mà đem ra cùng đọc, thì không biết cái cảm tưởng của
những người nghe kia như sao ?
" Nghĩ cho phong hoá đến lúc đã suy đồi, chẳng
ai có sức nào giữ được. Song thuộc hành vi riêng của cá nhân, ai có muốn sao cứ
tự, thực cũng chưa mấy ai nhẫn tâm dụng lực mong tồi hoại cho cái nền hủ cựu đó
chóng đổ đi làm chi. Có chăng, thời là ông Tú Phan Khôi vậy ".
(An Nam tạp chí số 37, 16-4-1932).
Sau khi đã buộc tội Phan Khôi như trên, Tản Đà long
trọng tuyên bản án Phan Khôi như các bạn đọc sau đây :
" Hợp hai bài " Bài trừ " An Nam tạp
chí số 34 và 37 đây, thời Phan Khôi viết bài " Tống Nho với Phụ nữ "
đăng trong Phụ Nữ tân văn số 95 ra ngày 13 Aout 1931 tức là kẻ có tội với danh
giáo :
– Vu hãm tiên hiền.
– Loạn ngôn hoặc chúng.
– Bại hoại phong hoá.
" Nay, chiếu theo hình luật Á Đông từ đời vua
Thuấn mới đặt, có minh văn trong kinh thư rằng : " Phốc tác giáo hình
". Nghĩa là : " Cái roi, dùng làm hình phạt thuộc về sự giáo huấn
". Cứ Phan Khôi phạm về tội danh giáo, vậy nên dùng roi để chừng.
" Chiếu theo các trường dạy nho ta kia xưa,
phàm học trò học dốt, đọc không thuộc, hoặc có tội vô lễ thời bắt phải nằm sấp
xuống đất, đánh ba roi. Cứ Phan Khôi can phạm ba điều như đã yết trên đây so với
những tội học dốt, đọc không thuộc và vô lễ thực lớn hơn gấp trăm. Vậy nên đánh
đòn ba trăm roi.
" Chiếu theo pháp lý Á đông, làm tội người đem
ra ở chợ, để cùng có công chúng dự biết. Cứ Phan Khôi phạm về tội danh giáo nên
đánh đòn ở trước sân Văn miếu, để trên có các vị Tiên Thánh, Tiên Hiền cùng
giám lãm, dưới có các sĩ phu trong phái Hán học cũng được dự biết.
" Cứ các nhẽ đã sơ thẩm như trên, xin nghĩ kết
Phan Khôi phải chịu ba trăm roi đòn, chia đánh ở ba nơi :
- Đánh ở trước sân Văn Miếu Thăng Long là nơi gốc
văn vật của sự học nho của nước ta từ triều nhà Lý.
– Đánh ở Huế, là nơi thủ phủ xứ Trung kỳ.
– Ở Quảng Nam, là nơi chốn của tội nhân sinh trưởng
học tập.
" Ngoài cái tội án Phan Khôi đã nghĩ kết, chiếu
theo thường luật có bắt tội oa chủ ; vậy những tiền phí giải Phan Khôi từ Nam
ra Bắc, cho lại về đến Huế, về đến Quảng Nam do Ban Trị Sự của Phụ Nữ tân
văn phải trích tiền quĩ của báo ấy cung nạp.
" Giở lên các điều án nghị theo như lệ nghị kết
về bài Phan Khôi viết : " Cái cười của Con Rồng Cháu Tiên " ; riêng bản
án này, trên có Toà Thượng Thẩm riêng xét về danh giáo là toàn thể sĩ phu phái
Hán học trong nuớc sẽ cùng phúc thẩm, dưới có tội nhân và oa chủ, ai có muốn
thân oan, cứ được hết lời thân oan ". (An Nam tạp chí số 37, 16-4-1932)
Nguyễn Tiến Lãng đả kích Phan Khôi
Chính trong lúc Tản Đà hăng hái buộc tội như vậy,
hình như Phan Khôi vẫn yên lặng không lên tiếng mà chỉ có bạn bè của Phan Khôi
lên tiếng một cách gián tiếp. Ấy là theo sự ghi nhận của Nguyễn Tiến Lãng trong
bài " Nguyễn Tiến Lãng và Phan Khôi " (An Nam tạp chí số 38,
23-4-1932).
Thực vậy, Nguyễn Tiến Lãng lên tiếng công kích Phan
Khôi trong hai bài đăng trong báo Trung Bắc, viết bằng tiếng Pháp, đề là Autour
d’une Polémique.
Vì bị Nguyễn Tiến Lãng công kích, Phan Khôi lên tiếng
trong bài " Cái học vào lỗ tai ra lỗ miệng " đăng trên Đông Tây số
160, ngày 6-4-32, trong đó Phan Khôi chê Nguyễn Tiến Lãng là dốt, dùng sai tiếng
Pháp, không hiểu nghĩa chữ Polémique là gì cả.
Nguyễn Tiến Lãng viết bài kể tội Phan Khôi gửi cho
báo Đông Tây, nhưng vì báo Đông Tây không đăng, cho nên Nguyễn Tiến Lãng gửi
đăng trên An Nam tạp chí số 38, 23-4-1932, trả lời ít điểm mà Nguyễn Tiến Lãng
cho rằng Phan Khôi đã xuyên tạc ông. Đây lời Nguyễn Tiến Lãng :
" Nay tôi giả nhời cho Khôi rõ :
" 1) – Phan Khôi hỏi : " Ông Lãng có thử đọc
qua những bài ấy của tôi không ? …Theo nhời ông Lãng, đủ biết rằng trong khi viết
bài ấy, ông Lãng không có dưới mắt ông tập báo kia có bài của tôi, nhưng trước
kia, thì ông có đọc cả, nên bây giờ mới nhớ mà nhắc lại cho ".
" Phải, tôi chép nguyên văn đó " nhời văn
" ông Phan Khôi hỏi tôi. Nhời văn của Phan Khôi là người chê văn quốc ngữ
của tôi " còn chưa xuôi ". Nhưng thôi…Nói làm chi. Tôi chỉ đáp câu hỏi
kia ; vậy tôi đáp.
" Chính phải thế Phan Khôi nghe ! Mà tôi không
có Phụ Nữ tân văn để giữ luôn ở trong nhà, và không gối văn Phan Khôi ở dưới
giường để xem đi xem lại luôn luôn, sự ấy Phan Khôi lấy làm lạ du ? Xã hội thì
hiểu rồi, hiểu cho tôi rằng tôi còn có việc khác và văn khác để xem chớ sao ?
"
" 2) – Các câu hỏi của Phan Khôi có ý bắt buộc
tôi phải đọc lại văn (!) của Phan Khôi rồi viết thêm cho báo Đông Tây mấy cột
báo, mà về văn (!) ấy, tôi không đáp ; bởi vì ông Tản Đà đã có cái chương trình
bài trừ cái nạn văn (!) và tư tưởng (!) Phan Khôi, mà chương trình ấy đã đang
thực hành trong An Nam tạp chí rồi. Việc đời còn nhiều, các bực sĩ phu trong xã
hội nên chia nhau mỗi người làm một việc. Huống chi " bài trừ Phan Khôi
" tôi cần gì phải làm nữa, vì đã có ông Tản Đà.
" 3) – Câu kết của Phan Khôi : " Ai không
biết đến đầu đến đuôi hết, thấy bài Nguyễn Tiến Lãng nói như vậy rồi tin đi, ắt
phải cho Phan Khôi là người bậy bạ. Hoặc giả ông Nguyễn Tiến Lãng dụng tâm như
thế chăng ? Ông Nguyễn Tiến Lãng nên hối ngộ liền. Đừng còn nhỏ tuổi mà lập tâm
bất chánh như vậy về sau sẽ hỏng ! "
" Nguyễn Tiến Lãng tôi đáp : " Phan
Khôi bậy bạ hay không bậy bạ, xã hội đã thừa rõ, cho nên Lãng này không cần phải
nói thêm ; nếu chỉ vì một nhời nói của Lãng mà xã hội từ trước vẫn nhầm vì
Khôi, đến nay mới biết Khôi là người thế nào, thì Khôi dù uất bởi ngòi bút này
mà đã phải lớn tiếng nhưng Nguyễn Tiến Lãng cũng rất vui lòng vì đã làm
được một việc ích. Ông Phan Khôi nên hối ngộ liền ! Tuy đã già đời, nhung cũng
còn thì giờ cải tà quy chánh, một đời chưa đến nỗi hỏng tất cả !
" Đối với tôi nói thế là đủ ; sau này mặc cho
Khôi lớn tiếng xin để xã hội nghe cáo trạng của thi sĩ Tản Đà mà cùng cười với
tôi ". (An Nam tạp chí số 38).
Như các bạn thấy ở đây, giọng điệu của Nguyễn Tiến
Lãng đối với Phan Khôi quả thực gay gắt, phũ phàng.
Vân Bằng đả kích Phan Khôi
Sau Nguyễn Tiến Lãng, đến lượt Vân Bằng lên tiếng chửi
Phan Khôi (An Nam tạp chí số 39, 30-4-1932) trong bài " Tôi thất vọng về
Phan Khôi ".
Trước hết Vân Bằng tố cáo Phan Khôi như là người hiếu
chiến, gây gỗ với mọi người, lập dị muốn làm khác người ta :
" Thật vậy, Ông Phan đã có phen khai cuộc
" bút chiến " - cái này mới thật là " bút chiến " chứ –
cùng ông Trần Trọng Kim về sách Nho giáo. " Đình chiến " được ít lâu
ông lại khởi " thế công ", khai một cuộc " bút chiến " khác
– cái này cũng thật là cuộc " bút chiến " nữa chứ – cùng ông Lê Dư về
vấn đề quốc học.
" Ông đã có phen hô hào cảnh cáo những nhà
" học phiệt " (xin mở tự vị Khang Hi) làm cho quốc dân đã được hưởng
cái thú đọc bài trả lời " mát mẻ " của ông Phạm Quỳnh.
" Ông đã có phen đem cái tài hùng biện ra trước
Toà án dư luận làm trạng sư cãi " thí " để " thân oan " cho
" bà vua Võ Hậu, đã chọn cung nhân bằng đàn ông, để mua vui trong lúc vạn
cơ chi hạ " (theo lời ông).
" Ông đã có phen thuyết lý về cái môn " Lô
dích " (logique) là môn ông rất sở trường, và ông cũng đã đem cái thuyết
" xưng hô " ra dạy đời nữa.
" Vừa đây, ông lại ra công " sáng chế
" ra một lối thơ " tân thời, tự do đặc biệt " không cần niêm luật,
tự ý vắn dài làm cho nhiều người " Hoài cổ " phải ngậm ngùi thương tiếc
" Tám vế " Luật Đường ! ! ! Có lẽ vì sự phát minh lối thơ mới này mà
phải mai một đi chăng ?
" Đó, cái công trình vĩ đại của ông Phan Khôi đối
với quốc văn là như thế. Cho nên văn tài ông được nhiều người bái phục, như lời
Ông chủ bút báo Đông Tây Hoàng Tích Chu đã nói rằng : " bạn Phan Khôi
" của ông có một bên (xin hiểu là một số người) coi là " Léon Daudet
" của Việt Nam. Sau khi đã vô tình đề cao tán dương Phan Khôi như vậy, Vân
Bằng trách Phan Khôi là thô lỗ, bỏ cả phong thái nhà nho để dùng những ngôn ngữ
tục tằn khi trả lời ông Nguyễn Tiến Lãng :
" Vậy mà trái đất xoay mình đâu chừng hai mươi
vòng, nghĩa là kể từ ngày tôi đọc bài của ông Phan Khôi đăng trên báo Đông Tây
số 160 (6-4-32) đến nay chừng ba tuần lễ, thì bỗng đã làm cho tôi thất vọng !
Tôi hay vậy, dạo trước đừng coi báo Đông Tây là hơn
mà cũng đừng mừng chi về tài ông Phan Khôi là hơn !
" Xin độc giả chịu khó giở tờ Đông Tây số 160
ra ngày 6-4-32 mà đọc lại bài của ông Phan Khôi nơi cột năm ở trang nhất thì liền
thấy sự thất vọng của tôi là có căn cứ. Sự thất vọng của tôi về ông Phan Khôi
là do ở cái cái cách " xưng hô " bất lịch sự của ông đối với ông Nguyễn
Tiến Lãng, cái cách xưng hô đó dã tỏ ra rằng ông Phan Khôi không nhớ cái lễ độ
cảa độc giả và quên mất cái thuyết " vô bất kính " của làng nho !
" Vậy, tôi cứ theo như cái " sự ngay thật
người luận biện phải giữ " mà kể cái cách xưng hô của ông Phan trên tờ
Đông Tây số 160 như sau này : bắt đầu ông viết " ông Nguyễn Tiến Lãng
", sau đến " Lãng ta " sau đến " Va " ! sau đến "
Tiến Lãng " sau lại " Ông Nguyễn Tiến Lãng ", Nguyễn Tiến Lãng,
và Lãng trống trơn vân vân…
" Không những riêng cách xưng hô bất lịch đó,
ông lại còn mở cuốn " tự vị riêng " mà dùng những tiếng " Xỏ lá,
ba que " (xin lỗi độc giả tôi cũng không hiểu nghĩa rõ) trên bài luận thuyết
" tràng giang đại hải " của ông (Đông Tây số 160 cột 5 trang 1) như vậy
thật là thiếu cái vẻ lễ độ với công chúng nữa ".
Để ra ngoài những lời nặng tiếng nhẹ mà người ta tặng
cho nhau trong lúc tranh luận nóng nảy, ta nhận thấy cuộc bút chiến này cũng đã
đặt ra những vấn đề xã hội rất đáng chú ý. Cuộc tranh luận này còn cho ta thấy
Phan Khôi mới lắm. Chẳng những Tản Đà không chịu được cái mới của ông mà cả đến
Nguyễn Tiến Lãng một tiến sĩ Pháp cũng chẳng ưa cái mới mẻ của Phan Khôi.
Nhân vụ rắc rối đối với Tản Đà này, ta nhận thấy
Phan Khôi là người có tư tưởng rất mới. Ông muốn xã hội Việt Nam phải đổi mới.
Mà theo ông muốn tiến tới phải đánh đổ mọi thứ mặc cảm tự tôn, ỷ lại vào những
là bốn ngàn năm văn hiến, những là Con Rồng Cháu Tiên. Ngoài ra ông còn đi trước
cả các nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn trong chiến dịch hạ bệ Nho giáo, chống chế
độ đại gia đình, chống tục cản trở đàn bà goá cải giá.
5
- Vụ Án Quốc Học
Lê Dư đặt vấn đề Quốc Học
Quốc học là gì ? Thực chất của nó ra sao ? Đó là một
vấn đề được đặt ra vào khoảng đầu năm 1930. Nhưng hình như hồi đầu người ta
không có đặt vấn đề nội dung cho từ ngữ này. Cái người đầu tiên đã dùng tiếng
này nhiều có lẽ là Sở Cuồng Lê Dư : ông lập ra một tủ sách lấy tên là " Quốc
học tùng san ". Tất cả các sách do ông biên soạn đều đề là " Sở Cuồng
Văn Khố Quốc học tùng san ". Rất tiếc là lúc viết về vấn đề này tôi không
có trong tay tất cả các tài liệu liên quan đến vụ này mà không biết tìm đâu cho
ra. Các thư viện mà tôi biết đều không có.
Năm 1930, Lê Dư cho xuất bản tập nghiên cứu đầu tiên
của ông trong bộ Quốc học tùng san, đề là " Bạch Vân Am thi văn tập "
với lời ghi chú " giật sử và văn thơ sấm ký của cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh
Khiêm ".
Rất tiếc là hiện giờ tôi không có tập này trong tay.
Nhưng tôi nghe rằng trong Bạch Vân Am thi văn tập, Lê Dư đã đề cao Nguyễn Bỉnh
Khiêm như là người có công nhất trong việc xây dựng nền quốc học.
Trịnh Đình Rư bác lý thuyết về Quốc Học của Lê Dư
Trịnh Đình Rư phê bình Bạch Vân Am thi văn tập của
Lê Dư. Bài phê bình này, tiếc rằng tôi cũng chưa được đọc, chỉ biết, theo Phan
Khôi, trong bài " Luận về quốc học " (P.N.T.V. số 94, 6-8-1931) thì
Trịnh Đình Rư không đồng ý với Lê Dư, không công nhận nước ta đã có cái gì gọi
là quốc học trong bài Luận về quốc học, Phan Khôi có trích lại hai đoạn văn Lê
Dư đã trích của Trịnh Đình Rư : " Nước ta từ xưa đến nay chưa từng thấy có
cụ nào dựng ra được một học thuyết gì to tát riêng, xét đến lịch sử những nhà học
giả Đông Tây mà nghĩ lại đến quốc học nhà, ta tưởng tự lấy làm thẹn "
(trích theo Luận về quốc học, P.N.T.V. số 94, 6-8-1931) và của Phạm Quỳnh :
" Nói đến học thuật chơn chánh thì cổ lai nước ta có gì ; không dám nói bạc
tiền nhân, nhưng thật không có người nào vậy. Tương truyền lý học thâm thúy có
cụ Chu An và cụ Trạng Trình nhưng các cụ phát minh được những điều gì, trứ thuật
được những sách gì có ích ? "
Cứ theo Phan Khôi thì vì Trịnh Đình Rư và Phạm Quỳnh
đã có ý kiến như vậy về quốc học cho nên Lê Dư đã viết bài " Câu chuyện đọc
thơ của ông Trạng " trong đó ông Lê Dư lên án đích danh Trịnh Đình Rư và
ám chỉ ông Phạm Quỳnh bằng việc trích văn của ông này như Phan Khôi tố cáo mà
không gọi tên đích danh Phạm Quỳnh. Trong bài đó Lê Dư kết án Trịnh Đình Rư và
Phạm Quỳnh rất gắt gao mà ông gọi là vô ơn và nhục mạ tổ tiên. Phan Khôi có
trích mấy dòng sau đây của Lê Dư : " Ôi ! các ông chưa xét cho kỹ, mà dám
to gan dạn miệng bội bạc tiền nhân như vậy ! Sao các ông vụ nhục nền văn hoá nước
nhà như vậy ? " (Trích theo Phan Khôi trong bài Luận về quốc học).
Phạm Quỳnh bày tỏ lập trường ủng hộ Trịnh Đình Rư
Nếu bài phê bình của Trịnh Đình Rư chúng ta không được
đọc toàn vẹn vì chưa biết nó được đăng ở báo nào, chứ bài của Phạm Quỳnh thì
chúng ta có thể đọc được đầy đủ. Thực ra Phạm Quỳnh không có ý bàn về quốc học
mà chỉ bàn đá đến vấn đề mà thôi. Phan Khôi kết án Phạm Quỳnh là học phiệt,
nghĩa là kiêu ngạo, khinh người, không chịu trả lời khi có người công kích. Phạm
Quỳnh trả lời Phan Khôi qua bài " Trả lời bài Cảnh cáo các nhà học phiệt của
Phan Khôi tiên sanh " (P.N.T.V. số 67, 28-8-1930). Trong bài này, sau khi
đã minh xác và thân oan cho thái độ của mình, Phạm Quỳnh, trong phần kết luận,
có bày tỏ nỗi lòng của ông đối với nền học vấn của ta từ xưa đến nay. Phạm Quỳnh
phàn nàn rằng tất cả cái học của ta từ xưa đến nay đều là cái học thuê viết mướn
chưa có gì đáng giá cả. Thế rồi ông hô hào người trong nước cố gắng gây lấy một
nền quốc học mai ngày bằng việc thành lập hội " chấn hưng quốc học "
: " Nói đến học thuật chơn chánh thì cổ lai nước ta đã có gì ? Không dám bội
bạc tiền nhân, nhưng thật không có người nào vậy. Tương truyền lý học thâm thúy
có cụ Chu văn An, cụ Trạng Trình. Nhưng các cụ phát minh được những điều gì, trứ
thuật được những sách gì có giá trị ? Nào đâu là những phái Vương học,
phái Thiền tôn như ở Nhật bản, cũng học chữ Tàu mà khám phá được nhiều điều người
Tàu không nghĩ tới ? Nước mình tịnh không có gì cả. Đó chẳng qua là bởi cái
tinh thần học vấn của mình nó bạc nhược quá. Lại bởi cái mô phỏng của người
mình nữa, xưa kia phỏng chép người Tàu, ngày nay bắt chước người Tây…
" Ấy cái hiểm tượng của học giới ta ở đó, ở cái
tánh nô lệ của người mình đó, chớ không phải là lỗi tại người nầy hay người nọ…
" Phải nên cùng nhau hiệp lực, cố gây dựng cho
nước nhà một nền " quốc học " đích đáng, không Tây mà không Nho, có
cái tính cách đặc biệt, tiêu biểu được cho cái tinh thần cố hữu của nòi giống.
Cái ý tưởng đó ngày nay Phan tiên sanh mới đề xướng, mà về phần tôi chủ trương
đã lâu lắm rồi.
" Vậy ngày nay chúng ta có nên cổ động lập một
hội " Chấn hưng quốc học ", họp tập những người có chí học vấn trong
Nam ngoài Bắc, mỗi năm hội nghị một lần để bàn các kế hoạch nên thi hành cho nước
nhà có một nền quốc học xứng đáng không ?
" Thiết tưởng thế còn hơn là cãi vã nhau vô
ích. Phan tiên sanh nghĩ sao ? (Phụ Nữ tân văn, số 67, 23-8-1930).
Phan Khôi công kích Phạm Quỳnh
Vì Phạm Quỳnh đã hỏi " Phan tiên sanh nghĩ sao
? ", nên Phan Khôi đã trả lời Phạm Quỳnh trên Phụ Nữ tân văn, số 70,
18-9-1930, qua bài " Về các ý kiến lập hội chấn hưng quốc học của ông Phạm
Quỳnh ".
Trong bài này, sau khi thương xác với Phạm Quỳnh nhiều
vấn đề, Phan Khôi tỏ ý không tán thành việc thành lập cái hội gọi là hội "
Chấn hưng quốc học ". Theo Phan Khôi chúng ta dã có quốc học bao giờ đâu
mà nói đến mất hay đến suy vi khiến phải chấn hưng. Phan Khôi viết :
" Cái ý kiến của tiên sanh muốn lập một hội kêu
bằng " Chấn hưng quốc học " đó, theo tôi, tôi tưởng ta chưa làm được,
mà cái hội ấy hình như cũng không cần có nữa. Nhơn rốt bài của tiên sanh, có lời
hạ vấn dến tôi, tôi phải trực trần ý kiến, xin chớ ai thấy mà trách tôi : Làm
không làm, lo phá đám !
" Trước hết xin gạn hỏi cái tên hội mà tiên
sanh phỏng định ra đó. Phàm cái gì từ trước đã có sẵn rồi mà sau suy bại đi,
mình muốn làm cho nó hồi phục lại cái quang cảnh cũ, vậy mới nói là chấn hưng
được. Cái nầy nền " quốc học " của nước ta tiên sanh đã nhận rằng từ
xưa chưa có, mà tôi cũng từng nhận như vậy, thì sao gọi được là " chấn
hưng " ?
Ấy ngay từ hồi này, như các bạn thấy, chẳng phải chỉ
có Trịnh Đình Rư hay Phạm Quỳnh chối ta không có quốc học mà cả Phan Khôi nữa.
Phan Khôi còn chối mạnh hơn cả hai ông Rư và ông Quỳnh. Vậy mà trong bài "
Câu chuyện đọc thơ của ông Trạng " Lê Dư chỉ đả kích có Trịnh Đình Rư và
Phạm Quỳnh mà không nói gì đến Phan Khôi. Chính sự yên lặng đó của Lê Dư đã được
Phan Khôi nhắc tới trong bài Luận về quốc học của ông khi ông viết :
" Còn tôi ai khảo mà xưng " Lạy ông tôi ở
bụi này ", cái không những là dại mà là dởm. Nhưng vì nếu tôi có thú khai
tôi ra đây thì cái ý nghĩa bài này mới càng đích xác hơn vậy.
" Cái giọng phủ nhận như ông Trịnh Đình Rư và
ông Phạm Quỳnh đó, thưa thiệt, tôi cũng có thốt ra nhiều lần rồi…
Một lần sau mới đây, lời càng thống thiết hơn, là
trong bài " Hán học ở bên Tây " đăng ở báo Đông Tây cách vài tháng
trước. Trong bài ấy đến nỗi tôi muốn nói rằng nước ta từ xưa đến nay không có
cái gì đáng gọi là cái học nữa kia. Những cái luận điệu của tôi đó tưởng ít nữa
ông Lê Dư cũng có thấy qua, song ông chừa tôi ra, là vì ông cùng tôi có tình
anh em riêng, với tôi, ông càng không muốn rắc rối hơn với ông Phạm nữa.
Ông Lê có lòng tốt đối với tôi như vậy tôi nỡ nào đi
phụ cái lòng ấy của ông ? Song tôi nghĩ, cái chân lý giữa cõi học nó bắt phải để
riêng cái tình anh em trong một nhà. Bởi vậy, trong việc này, tôi phải để mình
về bên hai ông Phạm và Trịnh kia, viết bài này cùng ông Lê thương xác lại vấn đề
ấy ". (Phụ Nữ tân văn số 94, 6-8-1931).
Cuộc chiến bùng ra gay gắt từ đấy. Nhưng trước khi
đi vào việc trình bầy tiếp cuộc tranh luận này, chúng ta cần tìm xem quan điểm
Lê Dư từ đấy trở về trước đối với vấn đề quốc học như thế nào.
Tôi không được đọc Bạch Vân Am thi văn tập là tập I
trong bộ Quốc học tùng san của Lê Dư in năm 1930, nhưng tôi được đọc Vị Xuyên
thi văn tập là tập II của bộ Quốc học tùng san, in năm 1931. Nơi đầu tập sách
này có hai bài giới thiệu ngắn một của nhà xuất bản Nam Ký thư quán là nhà xuất
bản đứng ra in tất cả sách vở của Lê Dư, một của Sở Cuồng Văn Khố. Theo chỗ tôi
phỏng đoán thì hai bài giới thiệu này cũng đã in ở đầu sách " Bạch Vân Am
thi văn tập " rồi nay lại được giới thiệu lại ở Vị Xuyên thi văn tập. Bài
giới thiệu của Nam Ký thư quán mang tựa đề là " Lời bá cáo của nhà xuất bản
bộ Quốc học tùng thư ". Vậy lời bá cáo này mở đầu bằng những đòn sau đây :
" Quốc hồn ở đâu ? ở tại tư tưởng, tư tưởng
phát ra làm văn chương, văn chương của các nhà học giả nước ta, từ xưa đến nay
chính là quốc hồn ở đấy nên quốc học cũng ở đấy.
" Ông Sở Cuồng là một nhà đốc chí hiếu học, cố
sức vun bồi nền quốc học, phát huy áng văn chương riêng của nước ta, ngót mười
năm nay ở trường Bác Cổ, lưu lý sưu tập những tài liệu thuộc về quốc văn, quốc
sử biên tập thành bộ " Quốc học tùng san " kể hơn một trăm tập nào là
lịch sử, nào là văn chương, tài liệu như núi như non, từ tảo như hoa như gấm, đủ
chứng minh kho văn học của ta phong phú như vậy, các bậc tiền bối ta, có công với
nền quốc học như vậy " (Lời bá cáo của nhà xuất bản bộ Quốc học tùng san,
trong Vị Xuyên thi văn tập 1931). Đến chính Sở Cuồng cũng có mấy lời giới thiệu
Quốc học tùng san của ông, cũng in ở đầu cuốn Vị Xuyên thi văn tập như thế này
: " Bản Văn Khố muốn lấy sức mọn vun bồi cái cơ sở nền quốc học, phát huy
áng văn chương riêng của nước ta, ra công sưu tập văn chương và lịch sử của các
nhà học giả xưa biên thành bộ " Quốc học tùng san " này, phương pháp
theo lối khảo cổ, cốt thu thập được nhiều tài liệu cho tiện về sau này, các nhà
văn học muốn khảo cứu về vấn đề gì đều sẵn đủ cả, cho nên cái nội dung có khác
với các quyển giáo khoa và các quyển thi văn tinh tuyển khác, xin độc giả lượng
xét cho ". Bài giới thiệu này ký là " Sở Cuồng Văn Khố ".
Cứ những bài giới thiệu trên đây thì ta thấy quan điểm
của Lê Dư chưa được minh bạch rạch ròi cho lắm. Nếu quan điểm đó không chỉ cho
quốc học là văn học thì ít ra quốc học hầu như là văn học. Thứ nhất ta thấy những
sách trong bộ quốc học của Lê Dư gồm toàn sách văn chương : nơi bìa tập sách Vị
Xuyên thi văn tập, tác giả liệt kê " Sách bộ Quốc học " của ông chỉ gồm
toàn sách văn chương như : Văn đàn bảo giám, Bạch Vân An thi văn tập, Bằng quân
thi văn tập, Ôn Như Hầu thi văn tập, Vị Xuyên thi văn tập, Việt văn dẫn giảng…Thứ
hai là ta thấy Lê Dư hứa sẽ viết một bộ Việt Nam văn học sử với dụng ý minh chứng
nền quốc học Việt Nam rất phong phú. Thứ ba ta thấy lời giới thiệu của Nam Ký
thư quán cũng hiểu quốc học là văn học như trong câu : Quốc hồn ở đâu ? Ở tại
tư tưởng, tư tưởng phát ra làm văn chương, văn chương của các nhà học giả nước
ta từ xưa đến nay chính là quốc hồn ở đấy, nên quốc học cũng ở đấy ". Thứ
bốn ta thấy chính Lê Dư trong " Mấy lời giới thiệu " cũng nói đến việc
xây cơ sở nền quốc học bằng việc sưu tầm văn chương :
" Bản văn khố muốn lấy sức mọn vun bồi cái cơ sở
nền quốc học, phát huy áng văn chương riêng của các nhà học giả xưa, biến thành
bộ quốc học tùng san này ".
Phan Khôi đã chẳng hiểu quốc học như Lê Dư, vì thế
ông mới viết bài luận về quốc học.
Phan Khôi luận về Quốc Học
Trước hết Phan Khôi nói đến việc dùng danh từ quốc học
trong văn giới Việt Nam cũng như văn giới Trung Hoa mới là từ mấy năm trở lại
đây mà thôi.
Phan Khôi định nghĩa chữ Quốc học rất rành rẽ. Ông
viết :
" Quốc học là một danh từ mà cũ và mới có nghĩa
khác nhau. Hồi trước ta nói " quốc học " tức là cái trường học cho cả
nước ; như trường Quốc học ở Huế là lấy nghĩa ấy : Còn chữ " Quốc học
" ngày nay thường dùng là chỉ về cái học riêng của một nước, có vẻ đặc biệt,
có chỗ khác với nước ngoài. Vậy khi nói " quốc học " cũng gần giống
như " quốc phục " là y phục riêng của một nước. Nói " Quốc kỳ
" là hiệu kỳ riêng của một nước.
" Chữ quốc học trong bài này chuyên nói về
nghĩa mới là nghĩa sau đó (Luận về Quốc học).
Như vậy, theo Phan Khôi, Quốc học là nền học thuật,
tức nền tư tưởng, nền triết học riêng của một nước đã thực sự ảnh hưởng, chi phối
đời sống của dân tộc nước ấy khiến cho dân tộc ấy thành khác biệt những dân tộc
trên thế giới.
Dựa theo giới thuyết như trên về quốc học, Phan Khôi
đồng tình với Trịnh Đình Rư và Phạm Quỳnh mà quả quyết nước ta chưa có quốc học.
Phan Khôi cho rằng đây là một vấn đề học vấn, vấn đề chân lý ; có thì nói có,
không thì nói không, chứ đừng vì tình cảm, vì tự ái dân tộc không đúng chỗ mà
phải nhận là có cái ta chưa có :
" Ông Lê nói có, ông lại hứa rồi đây ông sẽ đem
chứng cớ ra. Song, truyện ấy để lát nữa sẽ nói, đây tôi xin tỏ ra cái cớ tại
sao mà chúng tôi phải hô hào lên cho người ta biết rằng nước ta không có quốc học.
Sự học tức là sự trí thức, nó chuyên khuynh hướng về
lý trí mà không nên xen vào một chút tình cảm. Đức Khổng cũng dạy rằng cái học
của người đời xưa là vị kỷ và bắt đầu từ thành ý nghĩa là không dối mình. Khi
nói về cái học của một người đã vậy thì khi nói về cái học của một nước cũng vậy.
Nếu nước ta quả không có quốc học thì dầu nó là một sự nhục cho mình đi nữa
cũng phải chịu, không nên vì tình cảm mà nói có, cho thành ra dối mình. Dối
mình là một cái hại lớn lắm, cho người cũng như cho nước. Bởi vì, nếu không mà
nói có, ai nấy tin rằng có, sẽ sanh ra lòng tự phụ, mà tự phụ một cách hư ngụy,
rồi không lo tu tấn nữa, nhơn đó cõi học trong nước lại càng tối tăm thêm. Do lẽ
ấy trước khi muốn người nước mình bắt đầu từ ngày nay lập nên một nền học thuật
chúng tôi phải khai thiệt ra cho ai nấy biết cái tình hình trong cõi học nước
ta từ trước ra thế nào ; thấy không có thì chúng tôi phải nói không có, đó là
chỗ trung hậu thành khẩn của chúng tôi, cũng như một nhà kia ông cha nghèo, thì
phải khai thiệt là nghèo, không có một cục đất nào thì phải khai thiệt là không
có một cục đất ; hầu cho con cháu mà lo làm ăn vậy.
" Đó, nếu ai đã tin bụng tôi, hoặc chúng tôi,
thì sẽ không trách sự phủ nhận ấy là bội bạc, là vụ nhục nữa ; bây giờ đây, cái
vấn đề chỉ còn là sự " có " với " không " mà thôi. Như ai
nói " có " thì phải đem chứng cớ ra ". (Luận về quốc học).
Sau khi minh định quan niệm và thái độ thẳng thắn
như vậy, Phan Khôi duyệt qua một ít các nhà học giả xưa mà Lê Dư thường nâng
lên như là các ông tổ của nền quốc học Việt Nam thì chỉ thấy họ là những nhà
văn học chứ không ai kiến tạo được một hệ thống tư tưởng riêng biệt cho xứ sở
này.
Phạm Quỳnh luận về Quốc Học
Đồng ý và tiếp theo Phan Khôi, Phạm Quỳnh viết một
bài đại luận " Bàn về quốc học ", đăng liên tiếp trên hai số báo Phụ
Nữ tân văn số 104 (15-10-1931) và số 105 (22-10-1931).
Nơi bài số 104 (15-10-1931) Phạm Quỳnh thử ngược
dòng lịch sử duyệt qua một vòng xem có thể tìm đâu ra được vết tích quốc học
không thì Phạm Quỳnh đã phải thất vọng hoàn toàn.
Theo Phạm Quỳnh, anh hùng ta có, liệt nữ ta có, danh
sĩ, cao tăng ta cũng có, nhưng trong " cõi học nước ta, cổ kim chưa có người
nào có tài sáng khởi, phát minh ra những tư tưởng mới, thiết lập ra những học
thuyết mới, đủ có cái vẻ độc lập một " nhà " đối với các " nhà
" khác như bách gia chư tử bên Tàu ngày xưa " (Bàn về quốc học,
P.N.T.V. số 104). Cái học của ta, Phạm Quỳnh thấy toàn thị là cái học mướn mà học
mướn ấy cũng chưa học cho đến nơi đến chốn… Tổ tiên ta chỉ chú trọng đến cử
nghiệp cho nên rút cục sau hàng ngàn năm các cụ học hành mà con cháu ngày nay
nhìn về các cụ chẳng tìm thấy gì gọi được là học thuật tư tưởng đứng đắn cả. Về
việc định nghĩa quốc học là gì, ý tưởng Phạm Quỳnh giống ý tưởng Phan Khôi, duy
có điều Phạm Quỳnh nói sau nên có chiều khúc chiếc gẫy gọn hơn. Ông nói :
" Quốc học là gồm những phong trào về tư tưởng học thuật trong một nước,
có đặc sắc khác với nước khác, và có kết tinh thành ra những sự nghiệp có trước
tác lưu truyền trong nước ấy và ảnh hưởng đến các học giả trong nước ấy "
(Bàn về quốc học, P.N.T.V. số 104).
Cứ theo định nghĩa ấy Phạm Quỳnh đã đồng ý với Phan
Khôi mà bảo rằng nước ta chưa có quốc học. Rồi từ đó ông đi tìm nguyên nhân đã
xui khiến nên tình trạng buồn tủi kia. Phạm Quỳnh cắt nghĩa sự thiếu vắng kia bằng
ba lý do vừa địa lý, vừa lịch sử, vừa chính trị. Về địa lý, nước ta quá bé nhỏ
cho nên hầu như bị Trung Hoa nuốt trửng nên bị mất hẳn độc lập về tinh thần.
Về lịch sử, nước ta càng bị nước Tàu đè nén hơn nữa.
Ngoài 10 thế kỷ nô lệ, Việt Nam trong suốt thời độc lập vẫn phải đối phó gay go
cơ cực với Tàu. Ấy là chưa nói đến việc ta coi các học thuyết truyền từ Tàu
sang đều là tôn giáo cả cho nên không khi nào dám bàn cãi.
Thuộc về chính trị, thì nước ta xưa kia bị cái nạn
quân chủ chuyên chế. Nhà vua đã đặt ra một lối học rất gò bó để làm tiêu chuẩn
tuyển chọn người tài thành ra bao nhiêu sáng kiến tư nhân bị tiêu diệt dần đi.
Sau khi đã nhìn về dĩ vãng mà nhận định vấn đề như vậy,
Phạm Quỳnh đã hướng về tương lai mà đặt vấn đề : làm sao để xây dựng được một nền
quốc học ? Nếu đã tố cáo cái học nô lệ theo Tàu xưa kia thế nào, thì Phạm Quỳnh
lại chống cái học hoà đồng theo Tây như vậy. Cả phần thứ hai của bài bàn về quốc
học, tức bài số 105 (P.N.T.V. số 105, 22-10-1931), Phạm Quỳnh dành cho việc
phân tích nghiên cứu vấn đề để tìm một lối thoát cho tương lai đang lúc Tây
phương chi phối chúng ta nặng nề chẳng kém gì Tàu đồng hoá các cụ ta xưa kia.
Phạm Quỳnh muốn đề ra một triết lý văn hoá, nó sẽ là linh hồn, là cơ sở cho nền
quốc học tương lai. Triết lý đó là triết lý dung hoà. Ông viết : " Muốn
cho gây được thành một cái quốc học riêng của mình, thì phải dùng phương pháp
phê bình khảo cứu của khoa học mà phân tích những học thuyết cùng nghĩa lý cũ của
Á đông ta rồi đem ra nghiền ngẫm, suy nghĩ, đối chiếu với những điều chân lý
cùng những sự phát minh của khoa học thái tây. Kết quả của sự phân tích cùng tổng
hợp đó, tức là tài liệu để gây ra quốc học sau này vậy " (P.N.T.V. số
105).
Lê Dư trả lời cả Phạm Quỳnh lẫn Phan Khôi
Sau loạt bài của Phan Khôi đến của Phạm Quỳnh, đến
lượt Lê Dư lên tiếng. Không như những lần khác, lần này quan điểm của Lê Dư được
trình bầy khá minh bạch. Người ta có thể không đồng ý với ông nhưng biết rõ ông
muốn gì chứ không như trước đây. Có lẽ những lời công kích ông trước đây, đã
khiến cho Lê Dư suy nghĩ và cô đúc lại để đặt ra một lý thuyết cho chữ quốc học
mà trước kia có lẽ ông chưa có ý kiến rõ rệt.
Lê Dư cũng tự nhận thấy rằng sự không rõ rệt đó đã
xui khiến nên những cuộc tranh luận mà ông cho là vô ích cho nên ông viết bài
" Vấn đề quốc học " ghi rõ định nghĩa và nội dung quốc học (P.N.T.V.
số 107, Nov 1931).
Lê Dư đã định nghĩa quốc học : " Quốc học là học
vấn, kỹ thuật của một nước : học vấn kỹ thuật ấy là cái cố hữu của mình hay là
cái mình học của người nhưng đã thay đổi nhiều lắm, nay trở thành cái cố hữu của
mình mà người ta không ai có " (P.N.T.V. số 107).
Sau khi định nghĩa, Lê Dư mô tả nội dung của quốc học
: " Quốc học là đối với các học vấn ngoại lai như : Hán học, Phật học, mà
nói có chỗ đặc biệt mà từ xưa đến nay đã có học phái, có ảnh hưởng đến nhân quần
xã hội ta ; người ngoại quốc bàn đến cái học ấy, phải cho là cái học đặc biệt của
người nước Nam, không giống nước nào hết " (Bàn về quốc học).
Rồi Lê Dư kể lể các yếu tố làm nên qua niệm quốc học
theo ông hiểu :
" Đã là quốc học thì nội dung phải bao hàm cả
quốc văn, quốc sử, quốc túy ở trong.
" Quốc văn – lấy nhất ban quốc văn học làm chủ
như các học thuyết, lý thuyết những sách vở của tiền nhân đã trứ thuật để lại
và những quốc ca, quốc ngữ (chữ nôm và chữ quốc ngữ) đặc biệt của ta.
" Quốc sử – lấy nhất ban chính trị sử làm chủ
như cách tổ chức, cách hành động về chánh trị và những pháp luật, chế độ, phong
tục, tập quán, kỹ thuật đặc biệt của ta.
" Quốc túy – lấy nhất thiết trường sở mỹ điểm
thuộc về vật chất, về tinh thần của dân tộc tính cố hữu mà do cái tình hình địa
lý và nguyên nhân lịch sử đã dưỡng thành trong mấy mươi thế kỷ nay.
" Ba cái ấy, tôi đã nhận thấy là quốc học của
ta và là chủ nghĩa của tôi chủ trương đó (P.N.T.V. số 107).
Sau đó Lê Dư bảo đó chẳng phải ý kiến lập dị riêng của
ông mà là chủ trương của cả cái dân tộc cực văn minh là dân tộc Nhật Bản. Và chỉ
ai dốt nát không biết như vậy mới dám phủ nhận nền quốc học phong phú của ta.
Ta đọc thấy những dòng đại khái như sau đây của Lê Dư ám chỉ về những người bảo
ta chưa có quốc học : " Ôi ! sao các ông không xét đến sự thật và tình
hình học vấn nước nhà xưa nay, mà đã vội mạt sát tiền nhân như vậy ?
" Ôi ! không căn cứ theo sách vở , thì dễ nói bậy
bạ, cho nên tôi thường có một câu cách ngôn rằng : không biết pháp luật thì dễ nói
ngang, không xem sách vở thì sẽ nói càn " (P.N.T.V. số 107)
Lời lẽ của Lê Dư như các bạn thấy trên đây quả là kết
án bọn các ông Phạm Quỳnh, Trịnh Đình Rư, Phan Khôi là dốt nát.
Nguyễn Trọng Thuật giàn hoà
Sau bài công kích của Lê Dư, Nguyễn Trọng Thuật đứng
ra hoà giải qua bài " Điều đình cái án quốc học ". Đây nguyên
là một bài diễn thuyết ông đọc tại Hội Trí Tri Hải Dương ngày 26-11-1931, rồi
sau lại đăng tải trên Nam Phong tạp chí số 167 ra tháng 12 năm 1931.
Nói là hoà giải, là điều đình, nhưng thực ra Nguyễn
Trọng Thuật đứng hẳn về phe Lê Dư, công kích phe Phan Khôi, có điều là Nguyễn
Trọng Thuật công kích bằng lời lẽ phải chăng mà thôi.
Nguyễn Trọng Thuật mở bài diễn thuyết của ông bằng
việc ghi nhận nội dung và lý do vụ án mà ông gọi là " vụ án quốc học
".
" Hiện nay trong nước ta đang có một cuộc tranh
luận về vấn đề quốc học, là cái học riêng của một nước. Nó khác với nghĩa quốc
học cũ nghĩa là cái nhà trường học của cả nước như xưa. " Khởi xướng ra
hai chữ quốc học về nghĩa mới ở ta đây là ông Lê Dư ; cãi lại rằng nước ta
không có cái học đáng gọi là quốc học là ông Phan Khôi. Hai bên tranh luận ở
báo Đông Tây Hà nội, thành ra một cái học án cho học giả trong nước đang bàn
xét " .
Nguyễn Trọng Thuật có trách Lê Dư, nhưng điều ông
trách Lê Dư là điều rất nhẹ. Theo ông, cái lỗi của Lê Dư, nếu có, chỉ là Lê Dư
" sơ ý một chút " mà thôi.
Nguyễn Trọng Thuật viết :
" Nay xét đến nguyên nhân cuộc tranh luận
này, thì chỉ ông Lê Dư sơ ý một chút để nên chuyện mà thôi. Nguyên ông làm
trong trường Bác Cổ Hànội đã lâu năm, khảo cứu sưu tập được nhiều những tập văn
thi nôm của nước ta, nay ông muốn đem in dần ra làm một bộ sách tùng thư thuần
về bản quốc. Ông lấy việc làm như thế là nó thuộc vào một phần trong khoa quốc
học như của Nhật Bản đó. Ông bèn đặt tên cho bộ sách ấy là " Quốc học tùng
san ". Cuốn in mở đầu là " Bạch Vân Am thi tập ", trên đầu bìa
có bốn chữ tên bộ sách như thế… "
Ngoài ra, cũng theo Nguyễn Trọng Thuật, cái sơ ý của
Lê Dư là ở chỗ dùng một từ ngữ với một nội dung mới mà không minh định trước
cho độc giả biết cái nội dung mới mẻ ấy.
" Đại phàm mới phát minh ra một danh từ về chủ
nghĩa gì hay là mới thâu thái nó ở đâu mà đem xướng lên cho xã hội thì phải giải
thích cho rõ cái tính cách của nó ra trước. Bởi vì ngày nay thường một danh từ
mà nghĩa mới nghĩa cũ, nghĩa rộng nghĩa hẹp nhiều lắm, thế mà ông Lê không giải
thích cho cái tên quốc học mà ông mới dùng ấy một câu nào cả. Lại quyển "
Bạch Vân Am thi văn tập " ông Lê giữ tính cách biên tập và tồn cổ, cho nên
ông không có bình luận gì vào đấy một câu nào. Nghĩa là chỉ để cho học giả được
đủ nhiều tài liệu để nghiên cứu mà thôi. Nhưng ông cũng không dặn cho người ta
biết thế. Ở cái đời khoa học thực nghiệm này, trông ngoài bìa sách thấy hai chữ
" quốc học " mới mẻ to tát, mở cuốn sách thấy một ít lời sấm, thì ai
cũng phải ngờ. Ấy vì thế nghị giả nhận sai nghĩa chữ quốc học đi mà thành lầm
".
Nguyễn Trọng Thuật cho rằng chính bởi thiếu minh định
nội dung từ ngữ như vậy mà làm cho Phan Khôi hiểu lầm. Ông phân tích và bàn giải
về sự lầm lẫn của Phan Khôi một đàng vì không hiểu biết nội dung từ ngữ quốc học
theo nghĩa của Nhật bản, một đàng vì thiếu sự tìm tòi và đối chiếu các tài liệu
cũ của ta với nhau vì so sánh chúng với các nước khác. Đó là ý nghĩa của đoạn
văn sau đây :
" Nay xét ra nghị giả lầm vì hai cớ này : một
là không biết đến cái nghĩa quốc học đan thuần của Nhật Bản, nhận thấy ở Trung
quốc đâu đầu đời Dân quốc, có một phái nào đó xướng lên lấy sách bách gia chư tử
làm quốc học để đối với Tây học đang tràn vào. Quả như lời nghị giả thì nghĩa
quốc học ấy là ngoan cố khoa đại đấy, quả thế thì lầm. Hai là nghị giả không
đem thời đại học thuật của nước nhà mà so sánh với xa gần, và đồng thời không
chịu lượng xét cho học giới ta xưa bị những trở lực gì mà dù có ít nhiều điều
biệt kiến cũng phải tiêu trầm, rồi không chịu khó bới móc trong chỗ giấy rách
mà nhặt nhạnh lại, nhất diện cứ câu chấp ở đống sách bề bộn của Tàu mà kết án
cho cổ nhân mình, kết luận rằng : "Nước ta không có cái học gọi là quốc học
". Xét ra thì ý nghị giả muốn nói về cái học chung của thế giới kia, mà gọi
lầm là quốc học đấy, chứ quốc học thì nước nào mà chả có.
" Song le dù đối với cái học chung của thế giới
đi nữa, so với cụ Khổng, cụ Phật cùng Đông châu chư tử thì cổ nhân ta không những
không có mà lại còn là học đồ, nhưng so với bạn học cùng cái thời đại học thuật
với nhau, nghĩa là so với các học giả Hán, Tống, Minh Thanh, mà đời kêu là đại
nho thì cổ nhân ta đời nào cũng có như thế đấy, chỉ vì số nhiều không biết trọng
mà để trầm mai đi, thì còn lấy đâu mà thành lập lưu hành được. Chứ nếu đều được
thành lập lưu hành đến nay cả thì đã chả có cái cảnh tượng học thuật khủng hoảng
như bây giờ… "
Đoạn văn trích trên đây cho ta thấy Nguyễn Trọng Thuật
chủ trương rằng tổ tiên ta có thua kém thì chỉ thua kém cụ Khổng, cụ Phật thôi,
chứ có thua kém gì bách gia chư tử của Tàu và các học giả của Nhật.
Để minh chứng cho lập trường trên, Nguyễn Trọng Thuật
phân biệt cái học ra làm quốc học và thế giới công học rồi lần lượt định nghĩa,
mô tả thế nào là quốc học và thế giới công học : " Cho được hiểu rõ
hai điều lầm của nghị giả trên này, tôi xin bàn giải, so sánh và chứng dẫn luôn
làm một bài khảo cứu như sau này, các ngài tự suy xét phán đoán lấy, chứ tôi
không muốn theo cách biện luận tỉa tách từng lời, cãi vặt từng câu nữa.
" Dưới đây trước tôi phân giải cho hai cái học ở
trong học giới các nước ngày nay là quốc học với thế giới công học khác nhau thế
nào. Rồi tiến lên xem học thuật Việt Nam đối với hai cái học ấy ; về quốc học
thì lấy nghĩa của Nhật Bản rồi xem Việt Nam sẽ có những gì, về thế giới công học
thì trước xét ở Trung quốc, ở Nhật Bản về đồng thời xem thế nào, rồi xét đến Việt
Nam xem thế nào.
" Hai cái học trong học thuật thế giới :
" Học thuật các nước thế giới đến ngày nay là
hoàn bị và tinh tế, song lấy quốc tính mà phân ra thì có hai loài là quốc học
và thế giới công học. Quốc học là cái học riêng chỉ một mình nước ấy có. Thế giới
công học là cái học chung của các nước học lẫn của nhau.
" Coi đó thì biết quốc học tức là cái học bất dịch,
chỉ một nước ấy có, chỉ người nước ấy cần phải học, hoặc là chỉ người nước ấy mới
có thể học thâm thấu được, còn nước khác không có, người nước khác không cần phải
học, hoặc là có học cũng không thâm thấu được. Đến như thế giới công học thì là
cái học chung, là cái học biến dịch, nghĩa là tùy thời mà đổi mới tùy thời mà
khứ thủ không nhất định được.
" Ví như một người, quốc học là phần bản thể ;
thế giới công học là phần bồi dưỡng. Bản thể thì cần phải nuôi cho lớn khôn khỏe
đẹp ra mà không bỏ và thay chỗ nào được, nếu bỏ hay là thay chỗ nào thì là bất
cụ, quá thì chết. Còn bồi dưỡng thì nếu nhà có thì chớ, bằng có mà thiếu, hoặc
có mà xấu, hoặc không có đi nữa thì cứ lấy ở ngoài…
" Xem thế thì về thế giới công học, thiếu đâu cứ
cầu ở ngoài, đã hủ rồi thì cứ cải lại, hoặc khử cả đi, hoặc phát kiến thêm ra
được để đóng góp với đời càng tốt. Đến như quốc học thì phải có sẵn cả rồi, là
cũ kỹ tích lũy chứ không phải là mới. Hoặc có nhãng bỏ thì nay đem ra, có tản
mát thì nay thu tập lại, chứ không phải đi chuốc ở đâu đem vào được ".
Như vậy, theo Nguyễn Trọng Thuật, cũng như theo Lê
Dư, quốc học gồm có " quốc sử, quốc văn, quốc thần, địa dư chí, cổ
điển, ca dao và văn thi. " Quốc sử thì gồm có " sử ký, liệt truyện,
gia phả và bi ký " ; Quốc văn tức là " ngôn ngữ văn tự ", tức
cũng là " cái gốc của cõi học một nước ", quốc thần thì gồm " những
vị thần từ Hùng Vương trở xuống nào quốc tổ, nào vĩ nhân cùng những vị có công
đức ", địa dư chí thì biên chép các nơi danh thắng trong nước ; cổ điển tức
là " chính trị của lịch triều " ; chế độ của xã hội, phong tục của
dân gian ; ngạn ngữ phong dao là " cái kho tự điển văn luật, vừa là một
pho kinh, điển của cả một dân tộc kinh nghiệm hoặc sở đắc về luân lý, về phép
hành vi, về mĩ cảm ", văn thi là " kho tàng văn học thơ của các văn
nhân thi sĩ ".
Sau khi đã phân tích và mô tả quốc học và thế giới
công học là thế nào rồi, Nguyễn Trọng Thuật dựa vào các quan niệm đó mà duyệt lại
lịch sử của Việt Nam, của Trung Hoa, của Nhật để minh chứng, ở mọi địa hạt, ta
không có thua kém gì Trung Hoa hay Nhật Bản, có chăng ta chỉ thua kém là không
có một " cụ Khổng ", một " cụ Phật " mà thôi.
Cuối cùng Nguyễn Trọng Thuật, căn cứ vào lịch sử để
trình bày một cách cụ thể nền quốc học và nền thế giới công học như là đã có cơ
sở liên tục qua suốt cả lịch sử Việt Nam. Cái học của Việt nam dưới con mắt của
Nguyễn Trọng Thuật quả cũng đã có trường phái đàng hoàng. Ông viết :
" Tóm lại học thuật Việt Nam trong một thời đại,
cả Nho học Phật học đều có ba cái tính chất khác nhau là hợp sáng, biệt sáng và
toàn mô phỏng. " Ba tính chất ấy có những học phái này : " Về Nho học,
tính chất hợp sáng có Hán nho đích Việt Nam học phái, tính chất biệt sáng có
Chu An thực hành học phái, Hoa Việt Nho học phái, Quế đường học phái hay là Lê
Nguyễn nho học phái, tính chất toàn mô phỏng có Tống nho học phái ".
Như vậy, chẳng những ta không thua kém Tàu hay Nhật
mà cũng không đến nỗi hổ thẹn nếu so sánh với các nước trong thiên hạ. Nguyễn
Trọng Thuật diễn tả ý tưởng đó ở đoạn sau :
" Bởi vậy tôi đã ví quốc học là bản chất, ví những
cái học cũ ở Á Đông là nhà trường Đông phương học ; mà những cái sở đắc cũ là
những cái bằng tốt nghiệp trước vậy. Bây giờ bạn học cũ đã đều lên trường cao đẳng
mới, ta dù chậm chạp cũng đã tìm thấy cổng trường, nhưng trước khi thụ giáo, ta
phải tự sát hạch lại cái bằng tốt nghiệp cũ của ta là phải lắm. Cái bằng tốt
nghiệp cũ của ta, về món quốc học, những tài liệu về bản chất, so với bạn học
cũ dẫu chẳng được toàn ưu điểm gì, nhưng cũng ưu liệt tương bán. Về món công học
dù bị nội giới ngoại giới cùng số nhiều ham mê về cử nghiệp khiến cho có sở đắc
mà không được lưu hành, có lưu hành mà được một số ít người hoặc được một thời
kỳ ngắn ngủi ; song những tinh thần chủ nghĩa như là điều hoà siêu việt với thực
tế, thực hành minh đạo hoá dân, tự tín, tự giác về quốc âm thổ sản như trên ấy,
thực đã biết đem cái học công hữu của thế giới biến hoá ra làm cái học độc hữu
của một nước rồi đó ".
Qua sự phân tích bài " Điều đình cái án quốc học
" như trên đây, các bạn đã nhận thấy Nguyễn Trọng Thuật, tuy nói là không
bênh bên nào, mà kỳ thực thì đã bênh Lê Dư và kết án Phan Khôi. Có điều là lời
lẽ Nguyễn Trọng Thuật nó thanh lịch, kín đáo, nhẹ nhàng.
Phải chăng vì vậy mà Phan Khôi không chấp nhận sự
hoà giải của Nguyễn Trọng Thuật qua bài " Bất điều đình " của ông
đăng ở báo Đông Tây số 133. Tiếc rằng bài " Bất điều đình " của Phan
Khôi tôi chưa được đọc cho nên không biết Phan Khôi đã trả lời Nguyễn Trọng Thuật
những gì : hiện giờ tôi chưa làm sao tìm ra được tờ Đông Tây nào.
Phan
Khôi chống sự giàn hoà của Nguyễn Trọng Thuật
Nhưng cứ đọc bài Siêu Việt công kích Phan Khôi vì
Phan Khôi không chấp nhận sự điều đình của Nguyễn Trọng Thuật thì cũng biết qua
được thái độ của Phan Khôi đối với Nguyễn Trọng Thuật. Để phản đối cái việc
Phan Khôi không chịu nhận sự hoà giải của Nguyễn Trọng Thuật, Siêu Việt đã
trích những lời Phan Khôi buộc tội những ai muốn điều đình đều là hạng người
hèn nhát :
" Người ta mà ưa làm kẻ điều đình là chỉ vì có
ý sợ khó, có ý chiều đời, có ý thích làm lớn, bằng không có ý đó thì bổn thân
cái thuyết điều đình chẳng đứng một mình được vì nó vừa đen vừa trắng hay là
không đen không trắng, dễ nói quá, mà chẳng có nghĩa gì " (theo bài "
Đọc bài Bất điều đình của ông Phan Khôi " trong báo Đông Tây số 133, An
Nam tạp chí số 43, 1-6-1932).
Sau khi đã trích câu văn của Phan Khôi, Siêu Việt lấy
nó để mà đả kích Phan Khôi là ngụy biện thiếu tư cách của một học giả tự xưng
là trọng luân lý : " Ông Phan Khôi thường tự nhận là một nhà học giả, song
đọc đoạn văn trên vừa rút ở bài của ông, tôi không thể coi là cách lý luận của
học giả được ; gọi là cái luận điệu của trạng sư thì đúng hơn. Cái bổn thân của
sự điều đình thế nào ? Nó có hại và vô giá trị không, ông Phan hãy cùng tôi
nghiên cứu " (Siêu Việt, An Nam tạp chí, số 43).
Phản đối việc Phan Khôi không chịu điều đình, Siêu
Việt đã định nghĩa thế nào là điều đình theo nghĩa triết học. Ông viết : "
Điều đình hay là tổng hợp cũng vậy, có khi thì là cái chung cục của một cuộc biến,
mà có khi lại là cái mầm của một cuộc biến khác. Một lý thuyết dù hay dù dở,
bao giờ cũng có một phái tán thành, hết sức duy trì lấy nó. Đồng thời lại có một
phái khác phản đối lại. Bởi đó, sự xung đột của hai lý thuyết mà rút lại thì là
sự điều đình vậy. Hết cuộc biến thiên này lại kế tiếp một cuộc khác, nhân loại
tiến hoá không biết tới đâu mới là cùng " (An Nam tạp chí số 43).
Sau khi đã tranh luận với Phan Khôi về ý nghĩa của
chữ điều đình, Siêu Việt lại thương xác với Phan Khôi về thái độ cực đoan của
Phan Khôi. Cũng nhờ Siêu Việt mà ta biết Phan Khôi có chủ trương cực đoan. Siêu
Việt trích lời Phan Khôi : " Đại phàm sự học nhờ ở sự cực đoan mà mới có
tiến bộ. Nói về triết học, ai có khuynh hướng về duy vật thì cứ duy vật đi. Mỗi
bên đều cứ theo chỗ mình tin tưởng dựa vào luận lý học và phát huy nghĩa lý cho
tới cùng như vậy nền triết học mới càng ngày càng chói sáng thêm. Học giả bên
Tây sở dĩ tấn tới mau lắm là nhờ đi theo con đường đó. Con đường đó là gì ? Chẳng
phải là sự quan ma tư ích cho nhau của hai cái thái cực duy tâm và duy vật là
gì ? " (Siêu Việt An Nam tạp chí số 43).
Trích lời Phan Khôi rồi, Siêu Việt lại bàn giải về vấn
đề cực đoan như là một phương tiện trên đường khám phá chân lý. Như chỗ tôi hiện
biết, thì hình như cuộc tranh luận đã ngừng lại ở đấy. Vấn đề tuy chưa ngả ngũ
hẳn ra đàng nào, vụ án quốc học cũng khai mào cho việc đặt ra rất nhiều vấn đề
văn hoá xã hội và hối thúc học giả đi vào con đường tìm kiếm, giải quyết : Văn
học nhờ vậy mà tiến bộ rất nhiều.
6
- Vụ Án Thơ Cũ Thơ Mới
Phạm Quỳnh chê thơ Đông Phương
Chẳng phải đột ngột, bất thần mà có cuộc cách mạng về
thơ. Cuộc cách mạng ấy, thực ra, đã âm ỉ chuẩn bị từ lâu. Năm 1917, trên Nam
Phong tạp chí, số 5, nơi bài " Bàn về thơ nôm ", Phạm Quỳnh nhân đọc
cuốn Cổ xúy nguyên âm của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến đã tỏ thái độ về
thơ cũ mà ông coi luật lệ thực không có khác luật hình : " Người nào thuộc
luật thì bằng trắc tất không lộn, vẫn tất áp, luật tất niêm, điệu tất xứng, đối
tất chỉnh, sánh những khóe thôi xao, giỏi những cảnh xuất sáo mà gây nên những
bức thanh âm tuyệt điệu ; người nào không thuộc luật thì phạm phải những tội
ghê gớm, đọc đến mà rùng mình : nào là tội thất luật, tội thất niêm, tội khổ độc,
tội cưỡng áp, tội trùng ý, trùng chữ, điệp điệu ". (Bàn về thơ nôm, Nam
Phong số 5, Nov, 1917). Sau khi đã nêu lên những lề luật chật hẹp như vậy, Phạm
Quỳnh chê tâm lý của cái thứ thơ ấy là thứ tâm lý đã bị sửa chữa thành ra giả tạo
: " Người ta thường nói thơ là cái tiếng kêu tự nhiên của con tâm. Người
Tàu định luật nghiêm cho người làm thơ thực là muốn chữa lại, sửa lại cái tiếng
kêu ấy cho nó hay hơn, trúng vần, trúng điệu hơn, nhưng cũng nhân đó mà làm mất
cái giọng thiên nhiên đi vậy (Bàn về thơ nôm, Nam Phong số 5).
Sau đó, Phạm Quỳnh giới thiệu hai bài thơ, bài
" Qua đèo ngang " của bà Huyện Thanh Quan, và bài " Soir en
montagne " của Léonce Depont và trình bày cho độc giả nhận thấy thơ Tây
tình tứ, dồi dào, siêu việt bao nhiêu, thì thơ ta giả tạo, tiểu xảo, gò bó bấy
nhiêu. Và ngay từ hồi này Phạm Quỳnh hình như cũng mong có một sự đổi mới bằng
sự bắt chước Pháp trong khi ông viết :
" Bọn ta ngày nay thực là đứng giữa nơi giao giới
của hai cái tinh thần ấy, hai cái gặp nhau ở ta, nếu ta khéo ra thì có thể điều
hoà được cái hay của hai đằng mà không mắc phải những khuyết điểm. Ta cứ nên giữ
lấy cái lối tranh cảnh của ta nhưng ta nên rộng cái khuôn nó ra một
tí mà bắt chước lấy cái vẻ thiên thú của người " (Bàn về văn nôm, Nam
Phong số 5).
Phan Khôi chê thơ cũ trên Đông Pháp
Nếu năm 1917 đối với thi ca cũ, Phạm Quỳnh mới chỉ
dám trách nó là quá ư nghiêm nhặt nhưng vẫn nhận nó là tuyệt xảo thì năm 1928
trên Đông Pháp thời báo, Phan Khôi đã dám táo bạo chê luật lệ thơ cũ của ta là
trói buộc, tù hãm đã vậy mà lại còn thô tục nữa : " Song từ ngày đem thất
ngôn luật vào khoa cử rồi thì thể ấy trở nên bó buộc quá mà mất cả sanh thú...Ấy
chỉ là luật riêng dạy về lối làm thi trong việc khoa cử mà thôi, nào có phải
cái phép tắc chánh truyền của nghề thi như vậy ? nhưng mà ngày nay người ta
cũng tuân theo, không biết cởi mình ra khỏi trói. Thấy có một vài cuốn
sách quốc ngữ tự xưng dạy phép làm thi mà cũng dạy theo lối thi khoa cử ấy, thì
thật là tục quá. Thi quí cho nhã ; mà đã tục thì còn dạy ai ?"
(Chương dân thi thoại, tr 46).
Nguyễn Văn Vĩnh và bài thơ Con Ve sầu và Con Kiến
Cũng năm 1928 này, lần đầu tiên ta thấy xuất hiện
trên Trung Bắc Tân văn, bài thơ đầu tiên không niêm, không luật, không hạn
chữ, hạn câu : bài thơ dịch của Nguyễn văn Vĩnh La Cigale et la Fourmi :
Ve sầu kêu ve ve
Suốt mùa hè
Đến kỳ gió bấc thổi
Nguồn cơn thật bối rối.
Suốt mùa hè
Đến kỳ gió bấc thổi
Nguồn cơn thật bối rối.
Trịnh Đình Rư công kích thơ Đường
Năm 1929, Trịnh Đình Rư viết một loạt bài về vấn đề
thi ca trong mục " Văn thơ với nữ giới " đăng trên Phụ Nữ Tân Văn mà
ta có thể kể ra làm thí dụ tiêu biểu các số sau đây : số 18 (25-8-1929), số 19
(5-9-1929), số 26 (24-10-1929), số 29 (21-11-1929), số 31 (5-12-1929), số 33
(19-12-1929), số 62 (20-2-1930).
Trước hết ông trình bày cho ta thấy thi ca của ta từ
xưa cho đến nay không phải dừng bến bỏ neo ở mãi một chỗ mà vẫn biến hoá từ đời
này qua đời khác, từ chỗ nô lệ hoàn toàn đi đến chỗ vay mượn chế biến cho tới
hình thức sáng tạo độc lập đặc thù.
Thực vậy, nơi số 13 ngày 25 Juillet 1929 Trịnh Đình
Rư viết : " Văn chương theo từng thời vận mà biến đổi. Từ triều Lê trở về
trước nhân dân ăn ở dưới quyền quân chủ, dân trí hãy còn thuần ngạc cho nên thơ
văn về những thời kỳ ấy toàn là những giọng chất phác cả...Từ cuối đời Lê cho tới
triều Nguyễn gần đây dân trí hơi mở mang dần, văn chương có điều lịch sự hơn
trước, song cái tư tưởng về xã hội chưa có cho nên các nhà làm văn phần nhiều
là chỉ tả cái chí khí, cái tâm sự cùng cái hứng thú của mình...
" Cách mười năm về trước đây, sự học nước ta đã
thay cũ đổi mới, các nhà học giả đua nhau chuộng về văn quốc âm, song buổi đó
là buổi quốc văn mới phôi phai, lại chưa chịu đủ cái sức trào lưu ở ngoài thúc
giục, cho nên những tập văn thơ xuất bản về hồi ấy, toàn thấy những bài phi
tình thì sầu, phi sầu thì phiếm, ngày nay thức giả cho là vô vị mà hồi đó ai
cũng ưa chuộng ngâm nga ?
" Văn chương là hồn nước. Hồn nước tỉnh dần thì
văn cũng phải đổi mới...
" Ta thử xem ngay ông Nguyễn Khắc Hiếu. Năm xưa
xuất bản những tập " Khối tình con " " Còn chơi " kể có biết
bao nhiêu là văn thơ gọt nặn tỉ mỉ.
" Thế mà đến hồi năm kia ra chủ trương tạp chí
An Nam cho đến sau vào viết bài ở Đông Pháp thời báo, thì thơ văn của ông thấy
đã đổi hẳn ra giọng khảng khái và hùng hồn không ? " (Phụ Nữ Tân Văn số
13).
Trịnh Đình Rư cũng tố cáo sự chuyển hướng mãnh liệt
nơi chính bản thân ông : " Kẻ viết bài này nhân cũng xin thú thực rằng : hồi
năm 1919 đã có xuất bản một tập văn thơ nhưng sau tự xét thấy thiệt là vô vị
nên sau đó những thơ văn làm ra có thể tiếp tục in thêm được vô số tập nữa, lại
tự xét cũng không thấy ích gì cho xã hội, vậy đã quả quyết mà đem các bản thảo
phó cho thần lửa thu hết. " (Phụ Nữ Tân Văn số 13).
Sang đến số 19 (5-9-1929), nơi bài " Vì đâu mà
chuộng thơ sầu cảm ? ", Trịnh Đình Rư nhìn nhận rằng hầu hết thi ca của ta
lúc bấy giờ đều là thứ thơ sầu cảm rỗng tuếch, vô vị chứ đâu có được thứ sầu cảm
to tát, sâu xa.
Sự sầu cảm vô vị và rỗng tuếch của thi ca Việt Nam,
theo Trịnh Đình Rư, có lẽ vì nó bị gò bó bởi luật thơ Đường quá ư chật hẹp.
Có lẽ chính bởi vậy mà bài khảo luận sau đó, đăng Phụ
Nữ Tân Văn số 26, 24-10-1929, Trịnh Đình Rư đã kịch liệt chống đối bài bác thơ
Đường.
Trong bài này, Trịnh Đình Rư đả kích thơ Đường luật
khá gắt gao : " Cái nghề thơ Đường luật khó đến như thế, khó cho đến đỗi kẻ
muốn làm thơ, mỗi khi có nhiều tư tưởng mới lạ muốn phát ra lời, song vì khó
tìm chữ đối, khó chọn vần gieo, nên ý tưởng dầu hay cũng đành bỏ bớt. Cái phạm
vi của thơ Đường luật thật là hẹp hòi, cái qui củ của thơ Đường luật thật là tẩn
mẩn. Ta nếu còn ưa chuộng mà theo lối thơ này mãi, thì nghề thơ văn của ta chắc
không có bao giờ mong phát đạt được vậy.
" Chánh những nhà văn sĩ, nữ sĩ ở Trung Hoa gần
đây, họ cũng ít chuộng thơ Đường luật này nữa, vì họ cho là một lối thơ bó buộc,
làm cho người ta khó tả được hết cái cảm hứng. Cho nên họ có làm thơ, thì hoặc
dùng lối " trường thiên " không có hạn vần, hạn câu, hoặc dùng các lối
từ khúc không cần phải đối ghép tỉ mỉ. Ấy là lối thơ của họ mà ngày nay họ cũng
đã tự cải cách rồi đó. Ta còn cứ thần phục lối thơ Đường, nô lệ thơ Đường mãi
sao ? ".
Trịnh Đình Rư, tuy đả kích thơ Đường mạnh mẽ là thế,
nhưng chưa có đề nghị một lối thơ mới nào cả mà chỉ mới dám đề nghị lấy thơ
" lục bát ", " song thất lục bát " thay thế mà thôi :
" Ngày nay ta nên biết rằng, hai lối thơ đó mới
thiệt là thơ nước nhà, nó không có bó buộc người ta hạn câu, phải nặn chữ như
là lối thơ Đường luật. Nề nếp của nhà, văn chương của nhà, tiếng nói của nhà,
mà ta theo đòi luyện tập thì còn gì dễ hơn và hay hơn ? " (Trịnh Đình Rư,
" Có nên chuộng thơ Đường luật hay không ? " Phụ Nữ Tân Văn số 26,
26-10-1929).
Ngoài ra Trịnh Đình Rư còn viết thêm ba bài ca ngợi
những thể thơ hoàn toàn Việt Nam. Số 29 (21-11-1929 cực tán lối thơ lục bát :
" Viết một bài thơ lục bát, chữ đã không cần phải đối, vần lại không phải
đeo nhiều, vui bút kéo đến trăm câu, muốn gọn viết một bài vắn, cái thú hạ bút
tự do toàn ở tác giả cả. Vả lại thơ lục bát còn có một cái thú nữa, là một bài
thơ nếu có lời lẽ khá, có ý tưởng hay, thì người đọc dễ biết và dễ cảm ".
Đến số 31 (5-12-1929) ông ca ngợi thơ song thất lục
bát. Theo Trịnh Đình Rư, song thất lục bát chẳng những hay hơn thơ Đường mà còn
hay hơn cả lục bát vì nó tự do, nó uyển chuyển hơn.
Sang số 33 (19-12-1929) ông đề cập đến một lối Ca mới
mà ông cho là cũng thuần tuý Việt Nam và rất tự do : " Nay tôi lại xin nói
đến một lối ca mới này, là một lối ca do điệu thơ lục bát mà thêm đặt ra thành
từng câu. Lối ca này hiện ở ngoài Bắc đang thạnh hành lắm, thường đi chơi khắp
kẻ chợ nhà quê, đến đâu cũng nghe có người hát điệu ca này ; giọng hát thì nhiều
ngưòi cho là giọng " sa mạc " còn điệu văn thì nhiều người cho là điệu
ca " anh khoá " !
" Bởi sao gọi là điệu ca " anh khoá "
bởi vì họ cho rằng khởi đầu từ bài " Tiển chưn anh khoá " của ông Trần
Tuấn Khải đặt in ở quyển " Duyên nợ phù sanh " xuất bản năm xưa
" (Phụ Nữ Tân Văn số 33).
Cuối cùng đến số 42 (20-2-1930), nơi bài " Văn
thơ nên trọng về ý tưởng ", Trịnh Đình Rư lại đả kích thơ cũ vì gò bó về
niêm luật mà ý tưởng phải bị hy sinh :" Cái nghề thơ Đường luật khó đến
như thế, khó cho đến đỗi kẻ muốn làm thơ, mỗi khi có nhiều tư tưởng mới lạ muốn
phát ra lời, song vì khó tìm chữ đối, khó chọn vần gieo, nên ý tưởng dầu hay
cũng đành bỏ bớt. Cái phạm vi của thơ Đường luật thật là hẹp hòi, cái qui củ của
thơ Đường luật thật là tẩn mẩn. Ta nếu còn ưa chuộng mà theo lối thơ này mãi,
thì nghề thơ văn của ta chắc không có bao giờ mong phát đạt được vậy ".
(Phụ Nữ Tân Văn số 42).
Cái ý tưởng này, Trịnh Đình Rư nhắc đi nhắc lại luôn
qua tất cả năm sáu bài ta đã kể trên đây.
Phan Khôi kịch liệt đả kích thơ cũ và đề nghị cải
cách : làm bài thơ Tình Già
Nhưng phải đợi mãi đến ngày 18 tháng 3 năm 1932, Phụ
Nữ Tân Văn, số 122, mới cho nổ trái bom nguyên tử vào thành trì thơ cũ làm cho
nó hầu bị sụp đổ tan tành. Phan Khôi là người chỉ huy cuộc tấn công này. Thật vậy,
trên Phụ Nữ Tân Văn số 122, ra ngày 18 tháng 3 năm 1932, Phan Khôi đã viết bài
" Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ ". Trong bài này, trước
khi " trình chánh " một lối thơ mới của ông, Phan Khôi đã chĩa súng bắn
tới tấp vào thành trì thơ cũ. Từ xưa ông vẫn làm thơ, mà rồi bẵng đi ông chẳng
sáng tác được bài thơ nào nữa. Ông gặp ông Phạm Quỳnh, ông này khuyên ông nên
làm thơ như cũ vì Phạm Quỳnh cho rằng đấy là nghề của Phan Khôi. Học giả họ
Phan suy nghĩ và lấy lời ông Phạm Quỳnh làm phải và đã cố gắng làm theo ông Phạm
Quỳnh nhưng chẳng đi đến kết quả nào cả. Phan Khôi đã bộc lộ tâm sự buồn chán,
bất lực của ông mặc dầu trước đấy trong làng thơ ông cũng là tay đáo để, đã
không làm thơ thì thôi chứ đã làm là phải hay cả. Ông viết : " Ông Phạm bảo
tôi nên lấy lại thái độ ngâm thơ hồi trước. Trong đó tỏ ra rằng bấy lâu tôi đã
bỏ mất hay là đã đổi cái thái độ ấy đi, nghĩa là bấy lâu nay tôi không ngâm
thơ. Và quả thế, gần mười năm nay, tôi không có bài thơ nào hết, thơ bằng chữ
gì cũng không có.
" Trước kia dầu tôi không có tên tuổi trong
làng thơ như ông Nguyễn Khắc Hiếu, ông Trần Tuấn Khải, song ít ra trong một năm
tôi cũng có được năm bảy bài, hoặc bằng chữ hán, hoặc bằng chữ nôm. Mà năm bảy
bài của tôi, không phải nói phách, đều là năm bảy bài nghe được. Vậy mà gần mười
năm nay mót lắm chỉ được một vài bài mà thôi, thì kể như là không có ".
Mà Phan Khôi bảo ông không làm chẳng phải vì ông
không muốn, không thèm làm mà thực là ông " mót " làm lắm mà làm
không được. Ông đưa ra các lý do khiến ông không làm nổi bài thơ nào : "
Xin thú thực với mấy ông thợ thơ. Không có không phải là tại tôi không muốn làm
hay không thèm làm, nhưng tại tôi làm không được !
" Lâu nay, mỗi khi có hứng, tôi toan giở ra
ngâm vịnh, thì cái hồn thơ của tôi như nó lúng túng. Thơ chữ Hán ư ? Thì ông
Lý, ông Đỗ, ông Bạch, ông Tô cho án trong đầu tôi rồi. Thơ Nôm ư ? thì cụ Tiên
Điền, bà Huyện Thanh Quan đè ngang ngực tôi làm cho tôi thở không ra. Cái ý nào
mình muốn nói, lại nói ra được nữa, thì đọc đi đọc lại nghe như họ đã nói rồi.
" Cái ý nào họ chưa nói mình muốn nói ra, thì lại
bị những niêm, những vận, những luật bó buộc mà nói không được. Té ra mình cứ
loanh quanh luẩn quẩn trong lòng bàn tay của họ hoài, thật đã dễ tức ".
Mà bởi tức như vậy, cho nên Phan Khôi chửi thơ cũ là
giả dối, là đáng bỉ. Cácbạn nên chú ý đến chữ " bỉ " mà Phan Khôi
dùng để nói về thơ cũ : " Đại phàm thơ là để tả cảnh tả tình, mà hoặc tình
hoặc cảnh cũng phải quí cho chơn. Lối thơ cũ của ta, ngũ ngôn hay thất
ngôn, tuyệt cú hay luật thể thì nó bị câu thúc quá. Mà dầu có phóng theo ra lối
thất cổ...cũng vẫn còn bị câu thúc. Hễ bị câu thúc thì nó mất
cái chơn đi, không mất hết, cũng mất già nửa phần.
" Tôi nhìn thấy trong thơ ta có một điều
đáng bỉ, là bài nào cũng như bài nấy. Cứ rủ nhau khen hay thì nó là hay, chớ nếu
lột tận xương ra mà xem thì chẳng biết cái hay ở đâu "
Nếu chỉ có thế thôi thì chẳng có gì là đặc biệt. Trịnh
Đình Rư mà có lẽ cả Phạm Quỳnh nữa cũng đã chê trách thơ cũ gay gắt rồi.
Cái mới đặc biệt, có thể coi như quái gở nữa là khác
đối với học giả đương thời là ở chỗ ông bày ra một lối thơ mới mà ông chưa biết
gọi tên là gì.
" Bởi vậy tôi rắp toan bày ra một lối thơ
mới. Vì nó chưa thành thục nên chưa có thể đặt tên là lối gì được, song có thể
cử cái đại ý của lối thơ mới này ra, là : đem ý thật có trong tâm khảm mình tả
ra bằng những câu, có vận mà không phải bó buộc bởi những niêm luật gì hết
".
Sau khi giới thiệu sơ lược như vậy về thơ mới của
ông, Phan Khôi đã trình làng một bài thơ mới, bài Tình Già.
Tuy là một bài thơ mới đầu tiên, bài Tình Già của
Phan Khôi đã táo bạo hơn cả những thơ mới ra đời sau đấy xét cả về cách gieo vần,
cách đặt điệu, cách dùng tiếng vv...Câu thơ của Phan Khôi dài lượt thượt, câu
ngắn nhất cũng trên mười chữ, câu dài nhất có tới mười sáu mười bảy chữ... Luật
bằng trắc đã bị phá vỡ hoàn toàn, cho nên câu thơ của Phan Khôi còn gần văn
xuôi hơn cả các thơ tự do ngày nay.
Sau khi trình làng thơ rất " hỗn loạn " của
ông, Phan Khôi phải thanh minh rằng chẳng phải bởi lập dị hiếu sự mà ông làm
như vậy, nhưng bởi ông thấy trên miếng đất thơ cũ ông đã mất chỗ đứng cho nên
ông phải đi tìm đất mới. Ông chẳng dám tin rằng bài thơ của ông sẽ thành công
vì mươi năm trước đã có người làm như vậy mà đã thất bại nhưng nói tiên tri rằng
có người sẽ làm như ông mà sẽ thành công :" Chẳng phải là tôi hiếu sự,
nhưng vì tôi hết chỗ ở trong vòng lãnh địa của thơ cũ, tôi phải đi kiếm đất mới
; mà miếng đất tôi kiếm được đó chẳng biết có ở được không, nên mới đem ra mà
trình chánh giữa làng thơ.
" Chẳng phải tôi là người thứ nhất làm ra việc
này. Hơn mười năm trước ở Hà Nội cũng đã có một vị thanh niên làm việc ấy mà bị
thất bại. Tôi dại gì lại đi theo cái dấu xe đã úp ? Nhưng tôi tin rằng cái lối
thơ của ta đã hết chỗ hay rồi, dường như một chỗ đế đô mà cái vượng khí đã tiêu
trầm rồi ta phải kiếm nơi khác mà đóng đô. Tôi cầm chắc việc đề xướng của tôi
đây sẽ thất bại lần nữa, nhưng tôi tin rằng sau này có người làm như tôi mà
thành công ".
Lưu Trọng Lư hưởng ứng thơ mới
Gương Phan Khôi có người soi ngay và lời tiên tri của
ông đã ứng nghiệm (tôi tin rằng sau này có người làm như tôi mà thành công) đó
là trường hợp của Lưu Trọng Lư.
Lưu Trọng Lư đã gửi cho Phan Khôi một bức thư đính
kèm hai ba bài thơ mới được Phụ Nữ Tân Văn đăng số 153 đầu tháng 6 năm 1932,
tài liệu mà sau này báo Phong Hoá cho đăng vào số Xuân, tức Phong Hoá số 31 ra
ngày 25 Janvier 1933.
Trong bức thư này trước tiên Lưu Trọng Lư như có ý
trách Phan Khôi đã đánh trống bỏ dùi trong lúc thi ca Việt Nam đang ở trong thời
kỳ ngấp ngoải vì thi đàn lúc nhúc toàn tụi thị nhân rỗng tuếch ; rồi ông mô tả
thế nào là một " chân thi nhân " ; sau đó ông hô hào canh tân thi ca
nếu cần phóng túng buông lung thì cứ phóng túng buông lung đừng do dự ngần ngại
; sau cùng ông khuyên người ta tin vào tương lai của thi ca lúc này mờ tối bấp
bênh :
" Phan Tiên Sinh,
" Cách đây đã lâu, Tiên Sinh đã có đưa trình
chính giữa làng thơ một lối thơ mới. Tôi đọc bài rồi tôi cứ đợi mãi đợi mãi mà
sau tiên sinh không thấy có ai nối gót theo mà chính tiên sinh hình như cũng
không muốn giở dói việc ấy nữa. Thế là thôi. Cái " của mới " ấy có lẽ
chưa thích hợp với đời này. Mấy muôn độc giả đã yên trí như vậy, mà hẳn Tiên
Sinh cũng từng chau mặt giậm chân mà nói rằng : Thôi, không ai ưa thì ta xếp nó
lại đã, đợi khi khác ta lại mang ra ". Thưa Tiên Sinh, đợi khi khác, khi
nào nữa. Thi ca ta ngày nay đang lúc ngấp ngoải, không còn có lấy một chút sinh
khí. Nếu không xoay phương cứu chữa gấp, thì ôi thôi, còn chi là tính mạng của
thi ca ? ? Đừng có nói láy lắt như vậy tiên sinh ạ ! Nếu tiên sinh cứ giữ mãi
cái thái độ tiêu cực ấy thì bọn thi nhân " rỗng tuếch " kia còn cứ ca
đi hát lại những câu sáo hủ nghìn xưa mà không thấy nở ra được những bậc thi
nhân chân chính.
" Hẳn tiên sinh cũng hiểu rằng, những bậc chân
thi nhân không bao giờ lại chịu đứng trong cái " lãnh thổ " hẹp hòi
ngột ngạt, mà có thể đưa tâm hồn người ta lên tận mây xanh phảng phất trên những
sự nôm na, phàm tục, vật chất hàng ngày.
Những nhà chân thi nhân, thà là chỉ rung động
(vibrer) trong mình mình chứ không chịu xuất phát ra ngoài, mà để cho những cái
niêm luật khắc khổ, làm đẹt mất cái hồn thơ lai láng mênh mông. Người ta thường
khen Anatole France Tiên sinh trọn đời giữ được cái cốt cách thuần tuý của thi
nhân, chính là vì lẽ đó. Trong thi giới ta dễ thường được mấy người như thế ?
Phần nhiều nhà thi nhân cần phải xuất phát ra ngoài để cho nỗi lòng được nhẹ
nhàng, hể hả.
" Nếu cứ phải uốn nắn theo khuôn khổ chật hẹp,
như hiện tình thi ca nước nhà, thì họ phải thất vọng biết dường nào ! Vậy ta
còn ngần ngừ gì nữa, mà không mở rộng cái " lãnh thổ " kia ra, để mặc
sức cho họ đem những cái thiên tài phú bẩm ra mà đua bơi vùng vẫy. Làm vậy, hoặc
giả có kẻ hoài nghi mà bảo rằng : " Phóng túng buông lung quá rồi thành ra
lộn xộn, mất cả nề thơ ". Trong cái lúc quá độ, ắt phải như thế, có buông
lung, có phóng túng mới có thể phát triển hết những cái rất hay, rất quí, rất đẹp
trong mình, tuy có nhiều lộn xộn, nhưng một ngày kia thành thục rồi, sẽ trở vào
trong những cái nguyên tắc lề lối, rộng rãi hơn, tự do hơn.
" Dám khuyên tiên sinh nên mạnh dạn một lần nữa
mà tiến lên đường.
" Cái lối thơ mới của chúng ta là đương ở vào
thời kỳ phôi thai, thời kỳ tập luyện, nghiên cứu. Không biết rồi đây nó đi được
đến chỗ thành công, hay là nửa đường bị đánh đổ ! Đó là sự bí mật của lịch sử
văn hoá mai sau ! Dầu thế nào đi nữa nó cũng có giá trị là giúp cho sự tự do
phát triển của thi ca, đưa thi ca đến một chỗ cao xa rộng lớn, nó như thúc giục,
như khiêu khích, như kêu gọi nhà thi nhân ra làm một cuộc canh tân dầu có thất
bại, thất bại vì lòng mong ước quá cao, thì nó cũng đã hiến cho ta một cái công
lớn : nó chính là một tiếng chuông cảnh tỉnh làng thơ giữa lúc đương triền miên
trong cõi " chết ".
Trong lúc ban đầu mà đã mong có những tay " Thầy
thợ " chơn chính (véritables maitres) thật là không thể nào được. Nhưng
trái lại, nếu có ai xem thường những người sáng kiến ra cái lối " thơ mới
" kia, tưởng e rằng cũng đắc tội với tiền đồ văn học nước nhà lắm vậy
". (Phụ Nữ Tân Văn số 153, tháng 6-1932).
Đồng thời với việc Lưu Trọng Lư làm công việc khen
ngợi, hối thúc Phan Khôi bên Phụ Nữ Tân Văn, thì trên An Nam tạp chí số 39, ra
ngày 30-4-1932, Vân Bằng, trong bài " Tôi thất vọng vì Phan Khôi ",
nhân trách Phan Khôi thất lễ với Nguyễn Tiến Lãng, đã mô tả Phan Khôi như là
con người ưa lập dị, việc gì cũng muốn làm khác người. Vân Bằng đã có những mỉa
mai sau đây về Phan Khôi tác giả một lối thơ mới. " Vừa đây, ông lại
ra công " sáng chế " ra một lối thơ " tân thời " tự do, đặc
biệt, không cần niêm luật, tự ý vắn dài làm cho nhiều người " hoài cổ
" phải ngậm ngùi thương tiếc. Tám vế " luật đường " có lẽ vì sự
phát minh lối thơ mới này mà phải mai một đi chăng ?
" Đó, cái công trình vĩ đại của ông
Phan Khôi đối với quốc văn là thế, cho nên văn tài ông được nhiều người bái
phục, như ông chủ bút báo Đông Tây Hoàng Tích Chu đã nói rằng "
bạn Phan Khôi " của ông có một bên (xin hiểu là một số người) coi là
" Alphonse Daudet của Việt Nam " (Vân Bằng, An Nam tạp chí số 39,
30-4-1932).
Như vậy, có lẽ Vân Bằng là người đầu tiên chống lại
nhà thơ mới Phan Khôi. Có điều là những điều nói mỉa mai của Vân Bằng về Phan
Khôi chẳng dè lại hoá thành lời tiên tri. Quả thực là tám vế luật đường sẽ
vì sự phát minh của Phan Khôi mà bị mai một, và quả thực Phan Khôi
đã làm một công trình vĩ đại.
Nhưng ở ngay buổi đầu này, hình như những người nghĩ
như Vân Bằng có lẽ đông hơn nhưng những người lên tiếng như Vân Bằng chưa có
đông mà ngược lại những người làm công việc như Lưu Trọng Lư có lẽ đông đảo
hơn. Phong Hoá ngay từ số 14, ra ngày 22 tháng 9 năm 1932, đã lên tiếng kịch liệt
đả kích thơ cũ và hô hào bênh vực thơ mới. Bài hô hào đó được trích nhắc lại
trong Phong Hoá số xuân 1933, tức số 31, 24 tháng giêng năm 1933 với lời mở thế
này :" Trong số báo 14, Phong Hoá đã bàn về những chỗ không hay, không hay
vì bị bó buộc vào trong khuôn sáo của thơ đường luật ". Tác giả bài ấy kết
luận rằng " bỏ luật, niêm, đối, bỏ điển tích, sáo ngữ, nghĩa là tóm tắt, đừng
bắt chước cổ nhân một cách nô lệ. Thơ ta phải mới, mới văn thể, mới ý tưởng.
Nay bản báo nhận được bức thư của cô Liên Hương đề gửi cho ông Phan Khôi, nói về
lối thơ điệu mới của ông, ý tưởng có nhiều chỗ giống với ý tưởng bản báo "
(Phonh Hoá số 31, trang 16).
Lưu Trọng Lư đã từng gửi bài đăng ở Phụ Nữ Tân Văn số
153, vào tháng 6 năm 1932, rồi lại gửi đăng ở Phong Hoá số 31 ra ngày 24 tháng
1 năm 1933 vẫn chưa lấy làm thoả mãn nên tháng 5 năm 1933, khi cho xuất bản tập
tiểu thuyết đầu tay, Người Sơn Nhân, ông còn cho đính kèm ở phần hai một bài đả
kích thơ cũ ca ngợi thơ mới. Đó là bài " Một cuộc cải cách về thi ca
".
Bài " Một cuộc cải cách về thi ca " này
còn được kèm theo 14 bài thơ mới. Xét về nội dung bài " Một cuộc cải cách
về thi ca " này, ta không thấy có gì mới mẻ hơn bức thư đã gửi cho Phan
Khôi gần một năm về trước. Có điều là ở bức thư trước kia, Lưu Trọng Lư phàn
nàn là chưa có ai hưởng ứng, còn ở đây Lưu Trọng Lư ghi nhận là trên văn đàn đã
có khuynh hướng, tức đã có phong trào thơ mới :
" Gần đây trên trường văn học nước nhà thấy nảy
ra một cái khuynh hướng mới lạ, mệnh danh là thơ lối mới, muốn cởi trói thi ca
ra khỏi cái niêm luật khắc khổ. Biểu hiệu cho cái khuynh hướng ấy, đáng kể nhất
có ông Nguyễn Thế Lữ ở báo Phong Hoá và cô Nguyễn Thị Kiêm ở Phụ Nữ Tân Văn. Cả
hai coi bộ sốt sắng lắm. Nhưng cái " thi trào " ấy còn nóng mãi hay
là sẽ nguội dần, đó là sự bí mật của lịch sử văn học tương lai ta không thể
đoán trước được " (Người Sơn Nhân).
Sau khi nhận định như vậy về sự phôi thai của thơ mới,
Lưu Trọng Lư tấn công thơ cũ, chửi thơ cũ, nhất là cái thứ thơ cũ được chế tạo
rất giả hiệu đang bày biện ở các cửa hàng. Nó là thứ thơ chẳng thơ tí nào
:" Một hôm tôi vào một rạp hát nọ tôi không biết là người ta diễn vở tuồng
gì, nhưng khi tôi vào là nhằm khi một chú hề đương pha trò trên sân khấu. Chú
bông lơn thế nào mà thiên hạ cười như lười ươi nắc nẻ mà tôi thì...khóc không
được. Tôi tiu nghỉu ra đi, vẫn nghe tiếng cười vỡ rạp.
" Cái tiếng cười của rạp hát nọ đã chết rồi, vì
nó lạt lẽo, vô duyên quá. Ai bảo thi ca nước nhà với tiếng cười ấy chẳng cùng
chung một số phận. Ta thử tìm trong những cái vườn thơ của ta có gì là hoa thơm
cỏ lạ đâu nào ? Trong những bài thơ xuất bản trên các báo ngày nay, dưới ký cái
biệt hiệu mỹ miều đó, rặt là những câu trần ngôn sáo ngữ, đúc đi luyện lại từ
xưa đến nay, không thêm bớt, không sứt mẻ. Các tay thợ kia chỉ chuyên một mặt từ
chương âm vận : lựa chữ cho kêu, tìm điển cho lạ, đem cái áo văn chương hoa hoè
sặc sỡ mà mặc cho những cái tình cảm yếu đuối, những cái tư tưởng tầm thường.
" Cả một đám thanh niên rỗng tuếch, mềm nhũn,
ươn hèn đều tấp tểnh tập thói rung đùi, nặn câu, cũng khóc thời khóc thế, khóc
gió khóc giăng...Họ ca đi ca lại mà không thấy chán, những cái mà một Cống Quỳnh
hay một cô Xuân Hương đã quên nhãng. Họ gây lên một cái phong trào làm thơ rất
náo nhiệt, tưởng họ đưa được tâm hồn người ta lên phảng phất, tiêu diêu trên sự
nôm na chật hẹp hàng ngày, nào hay chỉ tổ làm cho người ta thêm long tai điếc
óc " (Một cuộc cải cách về thi ca, Người Sơn Nhân).
Một đoạn như đoạn trích trên đây cho ta thấy Lưu Trọng
Lư đã đi xa hơn Phan Khôi. Phan Khôi mới chỉ chê thơ cũ xưa kia và thú nhận
chính ông bất lực không làm nổi thứ thơ ấy nữa. Chứ Lưu Trọng Lư chẳng những chửi
thơ cũ mà chửi tùm lum tất cả các người đang làm thơ cũ lúc ấy. Phải chăng vì vậy
mà gây nên phản ứng mãnh liệt trong làng thơ cũ như các bạn thấy sau này.
Sau cùng Lưu Trọng Lư đã bộc lộ tâm tình của thế hệ
trẻ đang khao khát cái gì mới mẻ, đang say sưa chờ đón những thay đổi, đến nỗi
ông dã ví người " thanh niên Việt Nam ngày nay đương bơ vơ đi tìm người
thi nhân của mình, như người con đi tìm mẹ ". (Người Sơn Nhân) :
" Ai cũng biết người thanh niên Việt Nam ngày
nay đã chán nản về những sự chính trị ồn ào mà vô hiệu, đã thất vọng về những
cái mộng tưởng mỹ miều mà giả dối. Người thanh niên Nam Việt ngày nay chỉ ao ước
có một điều, một điều mà thiết tha hơn trăm nghìn điều khác là được có một nhà
thi nhân hiểu thấu mình mà yên ủi mình, một bậc thiên tài lỗi lạc đi vào tận
tâm hồn của mình, đến những chỗ cùng sâu, mà vạch những cái kín nhiệm uất ức, rồi
đưa phả vào những cái âm điệu du dương cho mình được nhẹ nhàng thư thả. Một việc
khó khăn như vậy, tưởng các người Tùng, Tuy ngồi đếm câu, chọn chữ mà làm được
ư ?
" Người thanh niên Nam Việt ngày nay đau đớn về
những cái đau đớn mà nhà thi nhân Nam Việt chỉ ngồi ca hát những nỗi khổ buồn
xưa. Còn gì chán bằng bắt ta buồn mãi cái buồn réo rắt, u uất của người cung nữ
đời Tần ? Còn gì khổ bằng bắt ta sầu mãi cái sầu dằng dặc, âm thầm của nàng
chinh phụ ? "
" Người thanh niên Nam Việt ngày nay đương bơ
vơ đi tìm người thi nhân của mình, như con đi tìm mẹ. Có ai thấy cái tình cảm
thảm thiết ấy không ? " (Người Sơn Nhân).
Lưu Trọng Lư xuất bản " Người Sơn Nhân "
vào khoảng tháng 5 năm 1933. Cuộc chiến giữa thơ cũ và thơ mới bùng ra dữ dội từ
đấy. Hoài Thanh và Hoài Chân, trong bài tựa " Một thời đại trong thi ca
", đã phác hoạ lịch sử thi ca trong vòng mười năm 1932 đến 1942, nhất là
đã ghi nhận cuộc chiến bùng ra giữa thơ cũ và thơ mới.
Các phe bênh thơ cũ
Sau đây là phe phái bênh thơ cũ :
" Aout 1933, một tuần sau cuộc diễn thuyết thứ
nhất của cô Nguyễn Thị Kiêm, ông Tân Việt, bỉnh bút báo Công Luận, bênh vực thơ
cũ tại diễn đàn hội Khuyến học Saigon. Octobre 1933 : Văn học tạp chí, Hànội,
chê các nhà thơ mới không biết cân nhắc chữ dùng.
" Novembre-décembre 1934 : Tản Đà nói chuyện
thơ mới, thơ cũ trên Tiểu thuyết thứ bảy.
" Décembre 1934 : Trên Văn học tạp chí ông
Hoàng Duy Từ phản đối bài diễn thuyết của ông Lưu Trọng Lư tại nhà học hội Qui
Nhơn.
" 9 Janvier 1935 : Ông Nguyễn Văn Hanh diễn
thuyết tại hội Khuyến học Saigon.
" 6 Janvier 1935 : Ông Nguyễn Văn Hanh lại diễn
thuyết tại hội Khuyến học Saigon cùng hôm với cô Nguyễn Thị Kiêm (diễn thuyết
tranh luận).
" Avril 1935 : Hai ông Tường Vân và Phi Vân xuất
bản tập thơ cũ " Những bông hoa trái mùa " ở Vinh.
" Juin 1935 : Ông Tùng Lâm Lê Cương Phụng công
kích thơ mới trên Văn học tuần san, Saigon.
" Avril 1936 : Ông Thái Phỉ công kích thơ mới
trên báo Tin Văn Hànội.
" Aout 1937 : Ông Nguyễn Văn Hanh diễn thuyết ở
hội Quảng Trị Huế.
" Juin 1941 : Ông Huỳnh Thúc Kháng, sau nhiều lần
chỉ trích và mạt sát, nói quả quyết rằng thơ mới đã đến ngày mạt vận "
(Hoài Thanh, Thi Nhân Việt Nam, trang 22).
Các phe bênh thơ mới
Về phía các nhà bênh thơ mới, Hoài Thanh ghi :"
Từ hai tháng trước, hôm 26 Juillet 1933, một nữ sĩ có tài và có gan, cô Nguyễn
Thị Kiêm, đã lên diễn đàn hội Khuyến học Saigon hết sức tán dương thơ mới. Hội
Khuyến học Saigon thành lập đến bấy giờ đã 25 năm. Lần thứ nhất một bạn gái lên
diễn đàn và cũng lần thứ nhất có một cuộc diễn thuyết được đông người nghe như
thế.
" Nối gót cô Nguyễn Thị Kiêm, còn nhiều diễn giả
cũng theo một mục đích : dành lấy phần thắng cho thơ mới.
" Juin 1934 : Ông Lưu Trọng Lư diễn thuyết tại
nhà Học hội Qui Nhơn.
" Janvier 1935 : Ông Đỗ Đình Vượng diễn thuyết
tại hội Trí Tri Hànội.
" Janvier 1935 : Cô Nguyễn Thị Kiêm lại diễn
thuyết tại hội Khuyến học Saigon để tranh luận với ông Nguyễn Văn Hanh.
" Novembre 1935 : Ông Vũ Đình Liên diễn thuyết
tại hội Trí Tri Nam Định.
" Février 1936 : Ông Trương Tửu diễn thuyết về
thơ Bạch Nga tại hội Khai Trí Tiến Đức Hànội ". (Thi Nhân Việt Nam trang
19).
Cứ kể bằng ấy mà thôi thì đã thấy Vụ án Thi ca đã là
rầm rộ, gay go, sôi nổi lắm. Rất tiếc rằng hầu hết các bài diễn văn đôi bên bài
bác nhau mà Hoài Thanh Hoài Chân nhắc đến trong bài " Một thời đại trong
thi ca ", hiện lúc này tôi không có trong tay. Tôi mong các bạn sẽ bồi bổ
vào bằng việc đi tìm ở các thư viện ở tỉnh, ở các thư viện tư gia.
Nhưng dù thiếu chưa tìm ra các tài liệu mà Hoài
Thanh nhắc tới, nhưng một tài liệu tôi hiện có trong tay đã thấy nhiều rồi và
càng chứng tỏ chưa có một vấn đề nào, ngoài vấn đề truyện Kiều, đã được văn giới
sốt sắng tham gia góp ý kiến hay quyết liệt bênh vực cho bằng vấn đề thơ Mới
thơ Cũ.