Thứ Hai, 31 tháng 10, 2022

8 cách đọc bài thơ Cảnh xuân

Bài thơ Cảnh xuân thành 8 bài thơ tuỳ theo cách đọc. Đây là bài thơ mà nhiều người chuyền cho nhau với tác giả Khuyết danh . Sau này trong Blog Sông Thơ, Nguyễn Văn Thiện công nhân mình là tác giả và bút hiệu Thiện Mỹ Nhân.

1. BÀI THƠ GỐC:

Ta mến cảnh xuân ánh sáng ngời
Thú vui thơ rượu chén đầy vơi
Hoa cài giậu trúc cành xanh biếc
Lá quyện hương xuân sắc thắm tươi
Qua lại khách chờ sông lặng sóng
Ngược xuôi thuyền đợi bến đông người
Xa ngân tiếng hát đàn trầm bổng
Tha thướt bóng ai mắt mỉm cười.


2. ÐỌC NGƯỢC BÀI GỐC TỪ DƯỚI LÊN:

Cười mỉm mắt ai bóng thướt tha
Bổng trầm đàn hát tiếng ngân xa
Người đông bến đợi thuyền xuôi ngược
Sóng lặng sông chờ khách lại qua
Tươi thắm sắc xuân hương quyện lá
Biếc xanh cành trúc giậu cài hoa
Vơi đầy chén rượu thơ vui thú
Ngời sáng ánh xuân cảnh mến ta.


3. BỎ HAI CHỮ ĐẦU MỖI CÂU TRONG BÀI GỐC:
Thành bài ngũ ngôn bát cú, luật bằng vần bằng:

Cảnh xuân ánh sáng ngời
Thơ rượu chén đầy vơi
Giậu trúc cành xanh biếc
Hương xuân sắc thắm tươi
Khách chờ sông lặng sóng
Thuyền đợi bến đông người
Tiếng hát đàn trầm bổng
Bóng ai mắt mỉm cười.



4. BỎ HAI CHỮ CUỐI MỖI CÂU TRONG BÀI GỐC -
ĐỌC NGƯỢC TỪ DƯỚI LÊN:
Thành bài ngũ ngôn bát cú, luật bằng vần bằng:

Mắt ai bóng thướt tha
Ðàn hát tiếng ngân xa
Bến đợi thuyền xuôi ngược
Sông chờ khách lại qua
Sắc xuân hương quyện lá
Cành trúc giậu cài hoa
Chén rượu thơ vui thú
Ánh xuân cảnh mến ta.


5. BỎ BA CHỮ CUỐI MỖI CÂU TRONG BÀI GỐC:
Thành bài tám câu x bốn chữ:

Ta mến cảnh xuân
Thú vui thơ rượu
Hoa cài giậu trúc
Lá quyện hương xuân
Qua lại khách chờ
Ngược xuôi thuyền đợi
Xa ngân tiếng hát
Tha thướt bóng ai.


6. BỎ BA CHỮ ĐẦU MỖI CÂU TRONG BÀI GỐC –
ĐỌC NGƯỢC TỪ DƯỚI LÊN:
Thành bài tám câu x bốn chữ:

Cười mỉm mắt ai
Bổng trầm đàn hát
Người đông bến đợi
Sóng lặng sông chờ
Tươi thắm sắc xuân
Biếc xanh cành trúc
Vơi đầy chén rượu
Ngời sáng ánh xuân.


7. BỎ BỐN CHỮ ĐẦU MỖI CÂU TRONG BÀI GỐC:
Thành bài tám câu x ba chữ :

Ánh sáng ngời
Chén đầy vơi
Cành xanh biếc
Sắc thắm tươi
Sông lặng sóng
Bến đông người
Ðàn trầm bổng
Mắt mỉm cười.


8. BỎ BỐN CHỮ CUỐI MỖI CÂU TRONG BÀI GỐC –
 ĐỌC NGƯỢC TỪ DƯỚI LÊN:
Thành bài tám câu x ba chữ:

Bóng thướt tha
Tiếng ngân xa
Thuyền xuôi ngược
Khách lại qua
Hương quyện lá
Giậu cài hoa
Thơ vui thú
Cảnh mến ta.

NGUYỄN VÂN THIÊN ( Thiện Mỹ Giang)
https://sites.google.com/site/vanthiensongtho/home/buom-tho-2/bai-tho-co-8-cach-dhoc

Thât ra bài thơ này theo phong cách bài thơ trong một truyên ngắn Hương xuân của Thiện Mỹ Giang đã phát hành năm 1972 của tạp chí Ngàn Thông số 19 & 20


1

Tản văn bất hủ về mùa thu

 Cảm Thu

Thu năm nay, tôi lại đi trên con đường vắng này nghe từng chiếc lá rơi trên bờ cỏ… Nước trong như một cặp mắt tuyệt vời. Những cây liễu xanh đứng buồn như những nàng Cung nữ thời xưa, và trong vườn nhà ai thấp thoáng, hoa phù dung nở trắng như một linh hồn còn trẻ?

Nắng ở đây vẫn là nắng vàng ngày xưa và linh hồn tôi vẫn là linh hồn tôi năm trước. Tôi vẫn ngờ như không sự thay đổi, vì lại thấy mình đi trên con đường này, thu năm nay, giữa lúc cây vàng rơi lá. Đường này hiu hắt, tôi đem lòng về để gặp mùa thu thương nhớ cũ, và nay cũng thấy thu về để nước hồ xanh. Chân ai đi xa vắng đằng kia, hay đó chỉ là gió thoảng mong manh? Và gió nào vương vấn hồn tôi, hay cũng chỉ là dư thanh của một ngày xưa cũ? Chao ôi! Buồn lại nhiều rồi, nhưng chỉ buồn như năm trước. Lòng tôi chẳng biết tìm ai mà nhớ, hôm nay nhớ lại buồn qua mới thấy nắng kia nhiều dĩ vãng.

Tôi nhớ một người lữ khách nào xưa, ra đi từ một mùa thu… Thế rồi cũng một mùa thu trở lại những bước đầu tiên trên con đường bạn, mắt buồn như nước, mảng tìm hồn mình hiu hắt trong hồn thu mới… Thu đã về đây, tôi làm lữ khách đi hết sông này, sông khác, cả núi, cả đèo và lại cả rừng cả suối, bây giờ tôi cũng về đây để buồn thêm một ít, nhớ thêm một ít, và yêu thêm rất nhiều.

… Từ hôm rời chân ở bến sông vàng.

Từ biệt con thuyền phiêu bạt, tôi đã hết nhớ dãy núi xanh phơn phớt đằng xa và bâng khuâng trở lại con đường quê thân mật.

Đi trên đất đó, giữa hai ruộng ngô thơm nghe ngào ngạt… Hương này có phải hương xưa? Ôi! Những dây đậu vẫn còn non mà luống khoai lang đã xanh tươi rồi nhỉ? Đi trên đất đỏ, bên những luống rau cải cúc và dẫm lên cỏ may vàng. Đây là những con bướm cũ, những cánh hoa xưa. Và này đây tất cả Ngày xưa: từng cơn gió nhỏ, từng sợi dây buồn…

Thôi! Thôi! Tôi không còn trẻ thơ nữa để say sưa đuổi bắt bướm đồng, và chẳng ngắm gió sầu mây, chỉ hoa lòng nở cũng nhiều bông trắng!

Thương nhớ vì sao! Tôi sớm giã từ hồn niên thiếu, hôm nay đi giữa cánh đồng lại thấy tuổi nhỏ của mình tản mạn trên từng cánh bướm, sắc hoa, và chân bước đi những bước ngậm ngùi, bởi chưng lòng tưởng con đường tan tác cánh hương của đóa xuân hồng thuở cũ.

Đinh Hùng

Giai phẩm “Mùa Gặt Mới” nhà xuất bản Tân Việt tại Hà Nội năm 1940


Tôi Đi Học



Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm mơn man của buổi tựu trường.

Tôi quên thế nào được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cánh hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng. Những ý tưởng ấy tôi chưa lần nào ghi lên giấy, vì hồi ấy tôi không biết ghi và ngày nay tôi không nhớ hết. Nhưng mỗi lần thấy mấy em nhỏ rụt rè núp dưới nón mẹ lần đầu tiên đi đến trường, lòng tôi lại tưng bừng rộn rã.

Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và đầy gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tôi tự nhiên thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: hôm nay tôi đi học. Tôi không lội qua sông thả diều như thằng Quý và không đi ra đồng nô đùa như thằng Sơn nữa. Trong chiếc áo vải dù đen dài tôi cảm thấy mình trang trọng và đứng đắn.

Dọc đường thấy mấy cậu nhỏ trạc bằng tuổi tôi áo quần tươm tất, nhí nhảnh gọi tên nhau hay trao sách vở cho nhau xem mà tôi thèm. Hai quyển vở mới đang ở trên tay tôi đã bắt đầu thấy nặng. Tôi bặm tay ghì thật chặt, nhưng một quyển vở cũng xệch ra và chênh đầu chúi xuống đất. Tôi xóc lên và nắm lại cẩn thận. Mấy cậu đi trước ôm sách vở nhiều lại kèm cả bút thước nữa, nhưng mấy cậu không để lộ vẻ khó khăn gì hết.

Tôi muốn thử sức mình nên nhìn mẹ tôi: “Mẹ đưa bút thước cho con cầm.” Mẹ tôi cúi đầu nhìn tôi với cặp mắt thật âu yếm: “Thôi để mẹ nắm cũng được.” Tôi có ngay cái ý nghĩ vừa non nớt vừa ngây thơ này: chắc chỉ người thạo mới cầm nổi bút thước. Ý nghĩ ấy thoáng qua trong trí tôi nhẹ nhàng như một làn mây lướt ngang trên ngọn núi.

Trước sân trường làng Mỹ Lý dầy đặc cả người. Người nào áo quần cũng sạch sẽ, gương mặt vui tươi và sáng sủa. Trước đó mấy hôm, lúc đi ngang qua làng Hòa An bẫy chim quyên với thằng Minh, tôi có ghé lại trường một lần. Lần ấy trường đối với tôi là một nơi xa lạ. Tôi đi chung quanh các lớp để nhìn qua cửa kính mấy bản đồ treo trên tường. Tôi không có cảm tưởng nào khác là nhà trường cao ráo và sạch sẽ hơn các nhà trong làng. Nhưng lần này lại khác. Trước mặt tôi, trường Mỹ Lý trông vừa xinh xắn vừa oai nghiêm như cái đình làng Hòa An. Sân nó rộng, mình nó cao hơn trong những buổi trưa hè đầy vắng lặng. Lòng tôi đâm ra lo sợ vẩn vơ.

Cũng như tôi, mấy cậu học trò mới bỡ ngỡ đứng nép bên người thân, chỉ dám nhìn một nửa hay dám đi từng bước nhẹ. Họ như con chim con đứng trên bờ tổ, nhìn quãng trời rộng muốn bay, nhưng còn ngập ngừng e sợ. Họ thèm vụng và ước ao thầm được như những người học trò cũ biết lớp, biết thầy để khỏi phải rụt rè trong cảnh lạ.

Sau một hồi trống thúc vang dội cả lòng tôi, mấy người học trò cũ đến sắp hàng dưới hiên rồi đi vào lớp. Cảm thấy mình chơ vơ là lúc này, vì chung quanh là những cậu bé vụng về lúng túng như tôi cả. Các cậu không đi. Các cậu chỉ theo sức mạnh kéo dìu các cậu tới trước. Nói các cậu không đứng lại càng đúng hơn nữa, vì hai chân các cậu cứ dềnh dàng mãi. Hết co lên một chân, các cậu lại duỗi mạnh như đá một quả banh tưởng tượng. Chính lúc này toàn thân các cậu cũng đang run run theo nhịp bước rộn ràng trong các lớp.

Ông đốc trường Mỹ Lý cho gọi mấy cậu học trò mới đến đứng trước lớp ba. Trường làng nhỏ nên không có phòng riêng của ông đốc. Trong lúc ông ta đọc tên từng người, tôi cảm thấy như quả tim tôi ngừng đập. Tôi quên cả mẹ tôi đứng sau tôi. Nghe gọi đến tên, tôi tự nhiên giật mình và lúng túng.

Sau khi đọc xong mấy mươi tên đã viết sẵn trên mảnh giấy lớn, ông đốc nhìn chúng tôi nói sẽ: “Thế là các em được vào lớp năm. Các em phải gắng học để thầy mẹ được vui lòng và để thầy dạy các em được sung sướng. Các em đã nghe chưa?” Các em đều nghe nhưng không em nào dám trả lời. Cũng may đã có một tiếng dạ ran của phụ huynh đáp lại.

Ông đốc nhìn chúng tôi với cặp mắt hiền từ và cảm động. Mấy cậu học trò trong lớp ba cũng đua nhau quay đầu nhìn ra, và ngoài đường cũng có mấy người đứng dừng lại để nhìn vào. Trong những phút này chúng tôi được người ta ngắm nhìn nhiều hơn hết. Vì vậy đã lúng túng chúng tôi càng lúng túng hơn.

Ông đốc lấy cặp kính trắng xuống rồi nói: “Thôi, các em lên đứng đây sắp hàng để vào lớp học.” Tôi cảm thấy sau lưng tôi có một bàn tay dịu dàng đẩy tôi tới trước, nhưng người tôi lúc ấy tự nhiên thấy nặng nề một cách lạ. Không giữ được chéo áo hay cánh tay của người thân, vài ba cậu đã từ từ bước lên đứng dưới hiên lớp. Các cậu lưng lẻo nhìn ra sân, nơi mà những người thân đang nhìn các cậu với cặp mắt lưu luyến. Một cậu đứng đầu ôm mặt khóc. Tôi bất giác quay lưng lại rồi giúi đầu vào lòng mẹ tôi nức nở khóc theo. Tôi nghe sau lưng tôi, trong đám học trò mới, vài tiếng thút thít đang ngập ngừng trong cổ. Một bàn tay quen nhẹ vuốt mái tóc tôi.

Ông đốc tươi cười nhẫn nại chờ chúng tôi: “Các em đừng khóc. Trưa nay các em được về nhà cơ mà, và ngày mai lại được nghỉ cả ngày nữa.” Sau khi thấy hai mươi tám cậu học trò sắp hàng đều đặn dưới hiên trường, ông đốc liền ra dấu cho chúng tôi đi vào lớp năm. Một thầy trẻ tuổi, gương mặt tươi cười, đang đón chúng tôi trước cửa lớp. Trong thời thơ ấu tôi chưa lần nào thấy xa mẹ tôi như lần này. Tôi cũng lấy làm lạ vì có những hôm đi chơi suốt cả ngày với chúng bạn ở đồng làng Lệ Xá, lòng tôi vẫn không cảm thấy xa nhà hay xa mẹ tôi chút nào hết.

Một mùi hương lạ xông lên trong lớp. Trông hình gì treo trên tường tôi cũng thấy lạ và hay hay. Tôi nhìn bàn ghế chỗ tôi ngồi rất cẩn thận rồi tự nhiên lạm nhận là vật riêng của mình. Tôi nhìn người bạn tí hon ngồi bên tôi, một người bạn tôi chưa hề quen biết, nhưng lòng tôi vẫn không cảm thấy sự xa lạ chút nào. Sự quyến luyến ấy tự nhiên và bất ngờ quá đến tôi cũng không dám tin có thật.

Một con chim con liệng đến đứng trên bờ cửa sổ, hót mấy tiếng rụt rè rồi vỗ cánh bay cao. Tôi đưa mắt thèm thuồng nhìn theo cánh chim. Một kỷ niệm cũ đi bẫy chim giữa cánh đồng lúa hay bên bờ sông Viêm sống lại đầy dãy trong trí tôi, nhưng tiếng phấn của thầy tôi gạch mạnh trên bảng đen đã đưa tôi về cảnh thật. Tôi vòng tay lên bàn chăm chỉ nhìn thầy viết và lẩm nhẩm đánh vần đọc bài viết tập “Tôi đi học.”

Thanh Tịnh 

(Quê Mẹ, 1941)

I Went to School

by Thanh Tinh

(English translation by Nguyễn Đại Thanh)

Every year at the end of autumn, yellow leaves scatter on roads, and white clouds float in the air. I am very excited by sweet recollections of my first school day.

I cannot forget those great feelings that flourish in my heart like fresh flowers smiling under a clear sky. Those memories have not yet been penned because I did not know how to write then, and now I cannot totally recall them all. But whenever I see small children timidly nestle under their mothers’ conical hats for their first time to school, I feel very much inspired again.

That morning full of autumn fog and cold wind, my mother affectionately held my hand going down the narrow and long village road. I had traveled this road many times; however, this time I found it unexpectedly strange. My surroundings had changed because there was a transformation happening within myself: I was going to school for the first time. I did not wade across the river to fly kites like Quy and go with Son to fool around in the field anymore. In a long and black robe made of parachute cloth, I felt formal and serious.

Along the way, I enviously observed some well-dressed little boys about my age cheerfully call one another by nicknames and exchange their books and notebooks. My two new books began to weigh heavier in my hand. I clutched them tightly, but one became loose, pointing downward. I pushed it back and carefully gripped them. Some students in front of me carried many books and notebooks under their arms together with pens and rulers, but they did not show any difficulties at all.

I wanted to check my strength so I looked at my mother and asked, “Please hand the pens and rulers to me.” My mother lowered her head and looked back at me with her affectionate eyes and said, “Son, I can hold them all.” Immediately I had this childish and naïve thought: Only an adept person could hold pens and rulers. That idea passed quickly through my mind as lightly as a cloud flying across a mountain peak.

The front courtyard of My Ly School was overcrowded with people. Everyone had a neat and clean appearance; their faces brightened with joy. A few days ago when going across Hoa An Village to trap birds with Minh, I had stopped by the school. That time the school had been an unknown place to me. I had gone around the classrooms to take a peek at some maps hanging on the wall through the glass windows. To me, the school had been higher and cleaner than the houses in the village. But this time was quite different. Before me, the school looked both charming and imposing as the village hall of Hoa An. Its courtyard appeared larger and its building higher than they were on completely still summer noons. I suddenly felt anxious without reason.

Like me, some other new students, bewildered, stood close to their relatives, only daring to glance quickly at others or stepping lightly. They resembled young birds standing on the rim of the nest, looking out onto open space, wanting to fly, yet hesitating with trepidation. They quietly wished they could have been the older students who knew their classrooms and teachers to avoid being timid in this unknown world.

After a rolling of the drum resounded in my heart, some old students came lining up under the veranda roof and stepped into their classroom. I felt abandoned at this time because all around were awkward and confused little boys like me. They did not move. They only yielded when pulled forward by force. Truthfully, they did not stop because their two feet kept dragging. They each raised one foot and forcefully extended them as if kicking an imaginary ball. Right at this moment, their whole bodies were shaking in sync with resonant steps in the classrooms.

The principal of My Ly School called in some new students to stand up in front of the third grade classroom. The village school was small; therefore, the principal did not have his own office. While he was calling roll, I felt my heart skip a beat. I even forgot my mother standing behind me. When my name was called, I was startled and puzzled.

After calling a few dozen names written in advance on a large piece of paper, the principal looked at us and said in a low voice, “So here you are in the fifth grade. You have to try to study to please your parents and make your teacher happy. Do you hear me?” They did hear, but none dared to respond. Luckily, there was a sonorous answer “yes” from the parents in return.

The principal looked at us with his benevolent and affecting eyes. Some third grade students also turned their heads together to look out, and a few people outside stopped to look inside from the road. During this minute, we were scrutinized. As a result, already embarrassed, we were increasingly puzzled.

The principal took off his glasses and said, “Line up here to enter your classroom.” I felt a hand tenderly pushing me forward from behind, but my body became unusually heavy. Unable to hold the end of a dress or the arm of a relative, a few students slowly stepped up and stood on the veranda of the class. They stared out towards the school yard where their relatives were watching them with loving eyes. One student standing at the head of the line hid his face in his hands and cried. I unknowingly turned back and followed suit, burying my face into my mother’s chest. I heard soft sobbing that halted in the throats of the new students behind me. A familiar hand gently smoothed my hair.

The principal patiently and smilingly waited for us and said, “Do not cry. You will go home at noon and you will have the day off tomorrow.” After examining the twenty-eight students lined up straight on the school veranda, he made a gesture to let us enter the fifth grade.* A young teacher with a smiling face welcomed us at the class entrance. Throughout my childhood I had never spent a significantly long time away from my mother. I also found it strange because many past times I had spent a whole day with my friends in the field of Le Xa Village, and I still had not felt far away from home or my mother at all.

A peculiar scent filled the classroom. All the pictures hanging on the walls were extraordinary and interesting to me. I carefully examined my desk and chair and claimed them as my own property. I looked at a little boy sitting beside me, a new friend, yet seemingly familiar. Our bond felt natural and so unexpected that I could not believe it.

A young bird came hovering and perched on the window, chirped timidly and then took off with a flap of its wings. I cast a longing glance at the bird. An old memory of trapping birds in the middle of the rice field and by the Viem riverbank fully relived in my mind; however, the sound of my teacher scratching chalk on the blackboard brought me back to reality. I folded my arms on the table, watched attentively as my teacher wrote, and mumbled the writing assignment “I go to school.”

= = = = = = = = = =

*According to the Vietnamese educational system prior to 1945, the fifth grade was the lowest level in elementary schools. It was the equivalent to the first grade in American schools.


Thứ Tư, 28 tháng 9, 2022

 













Khóc Chị Lắm

Chị ơi! Chị đã ra đi

Anh Long ở lại cu ki một mình

Mới đây Chị gọi thình lình

Chị em mình đã tâm tình thật lâu

Bây giờ thì Chị còn đâu

Để em kể chuyện vui sầu Chị nghe

Những lời Chị dặn đây nè

Có tình có nghĩa bạn bè nha em

Nhìn hình của Chị thư kèm

Không hay nước mắt tèm nhem lù mù

Bây giờ tháng chín mùa thu

Nguyện cầu cho Chị chu du Vĩnh hằng

Trần-Văn Phét

Thứ Bảy, 4 tháng 4, 2020

ĐÃ ĐƯỢC ĐI HỌC THÌ ĐỪNG ĂN CẮP



Tác giả: Đỗ Trung Quân

Quê hương là gì hả mẹ
Mà cô giáo dạy hãy yêu?
Quê hương là gì hả mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều?

Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay

Quê hương là con diều biếc
Tuổi thơ con thả trên đồng
Quê hương là con đò nhỏ
Êm đềm khua nước ven sông

Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón lá nghiêng che
Là hương hoa đồng cỏ nội
Bay trong giấc ngủ đêm hè

Quê hương là đêm trăng tỏ
Hoa cau rụng trắng ngoài thềm
Tiếng ếch râm ran bờ ruộng
Con nằm nghe giữa mưa đêm

Quê hương là bàn tay mẹ
Dịu dàng hái lá mồng tơi
Bát canh ngọt ngào tỏa khói
Sau chiều tan học mưa rơi

Quê hương là vàng hoa bí
Là hồng tím giậu mồng tơi
Là đỏ đôi bờ dâm bụt
Màu hoa sen trắng tinh khôi

Quê hương mỗi người đều có
Vừa khi mở mắt chào đời
Quê hương là dòng sữa mẹ
Thơm thơm giọt xuống bên nôi

Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ…
Tản văn dưới đây của nhà thơ Đỗ Trung Quân đã làm nhiều cư dân mạng xúc động và thú vị. Ông gợi lên hình ảnh của tiệm sách Khai Trí và người chủ của nó, một nơi thân quen trong lòng người Sài Gòn yêu chữ nghĩa.
…Tủ sách ở nhà không còn đủ cho thằng nhóc nữa. Nó cũng hết tuổi thiếu niên từ lâu, nó nhảy lên Sài Gòn tìm được chỗ này nơi rừng sách mênh mông, nơi có thể cắm mặt vào sách từ sáng tới chiều miễn… không được mang ra mà quên trả tiền. Tiếng lóng của Sài Gòn là “đọc cọp“ như xem cine không mua vé, lẫn vào đám xếp hàng để chuồn vào gọi là “xem cọp”. Ông chủ hiệu sách ngồi trên lầu 2. Người Sài Gòn thường gọi là “ông Khai Trí”; lâu dần chỉ người trong giới mới nhớ tên thật của ông: Nguyễn Hùng Trương. Xuất thân không được học hành nhiều nhưng con người này sẽ trở thành một trong những biểu tượng “Khai Trí” cho nhiều thế hệ học sinh, sinh viên Sài Gòn bằng nhà sách danh tiếng của mình.
Đấy là một buổi chiều Sài Gòn sầm mưa, màu thành phố hệt như màu “chiều tím” của Đan Thọ – Đinh Hùng. Dường như tôi đã chúi mũi ở giá sách này rất lâu, một trăm khổ thơ lục bát của tác phẩm mới xuất bản “Động hoa vàng” dường như còn thơm mùi mực. Tôi buộc mình phải học thuộc lòng nó vì lý do duy nhất: không đủ tiền mua ấn phẩm, mà ca khúc “Đưa em tìm động hoa vàng” mà danh ca Thái Thanh đang làm ngây ngất mọi tín đồ của quán cà phê Sài Gòn khi ấy. Nhưng trời đã tối, chỉ mới thuộc đến khổ thơ thứ 78. Chàng trai trẻ quyết định một quyết định chưa từng có trước đó trong đời: ăn cắp sách.
Tập thơ lận sau lưng áo học trò ra cửa.
Ông Hùng Trương ngồi sau chiếc bàn cũng chật đầy sách, hầu hết đều ngổn ngang chưa sắp xếp, có đủ mọi thể loại. Có lẽ đấy là những cuốn sách được tịch thu lại từ những kẻ… thó sách như tôi. Giọng ông trầm, ôn tồn, âm miền Nam:
“Em học lớp mấy? Là học trò sao lại đi ăn cắp? Ăn cắp gì cũng xấu hiểu chưa? Tôi coi sổ thấy em mới phạm lần đầu ở đây nên cho em về. Ráng làm người tốt, được đi học thì đừng thành ăn cắp nghen em!”
Tôi bước khỏi Khai Trí mặt cúi gằm, chưa bao giờ đời mình xấu hổ đến thế.
Hơn 30 năm sau, tôi bước vào căn nhà nhỏ trên đường Điện Biên Phủ. Ông Khai Trí sau nhiều năm sống ở nước ngoài nay về Sài Gòn. Ông chưa thôi nung nấu tâm nguyện mở lại nhà sách, dù sau 1975 nhà sách của ông bị tịch biên, hàng tấn sách của ông bị tiêu hủy hoặc phát tán vào tay ai không rõ. Tội danh dành cho ông ngày ấy là “truyền bá văn hóa Mỹ-Ngụy độc hại”. Chuyến về thăm này, ông nhờ người liên lạc với tôi và mời đến. Tôi ngạc nhiên không rõ điều gì.
Ông già và gầy hơn xưa. Chỉ sự ung dung, điềm đạm của một người thành lập một nhà sách danh tiếng nhất Sài Gòn là còn nguyên vẹn. Ông đưa một bản in tay bài thơ “Quê hương-bài học đầu cho con” để xin tác giả ký tên. Ra là thế!
Nhưng tôi chưa ký ngay, tôi dò hỏi ông trong ký ức liệu bao nhiêu đứa học trò ăn cắp sách ngày xưa tại nhà sách của ông, được ông tha về, ông còn nhớ nổi? Ông già hiền lành lắc đầu, “ Sao nhớ nổi thưa ông!”
Và tôi dẫn ông về buổi chiều nhá nhem tối của Sài Gòn hơn 40 năm trước, “Nó đây thưa ông, đứa học sinh ăn cắp tập thơ Phạm Thiên Thư được ông tha cho với lời khuyên bảo ân cần.”
Tôi ký tên vào bản thơ duy nhất của ông, còn hơn cả thế, nó còn dòng chữ ghi thêm “cảm ơn ông với lời khuyên ngày xưa-đã được đi học thì đừng ăn cắp”
Ông Khai Trí đã mất sau đó vài năm. Giấc mộng mở lại “Khai Trí” của ông không thành. Nhìn lại bức hình nhà sách cũ của ông những năm 69 – 70, nhớ ông, tôi viết những dòng này.
(Đỗ Trung Quân – sài gòn tháng tám – 2012)
Nguồn: baotreonline