Thứ Tư, 17 tháng 10, 2018

Bộ môn Hán Nôm

Trong bài tham khảo sau đây của Trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Của  Đại Học Quốc Gia ở Sài gòn có nhắc đến cô Khưu Sĩ Huệ và ghi rằng : "các thầy cô Người Hoa dạy tiếng Hoa: Đới Ngoạn Quân, Diệp Tuyền Hoa, Khưu Sĩ Huệ."

Giáo sư Khưu Sĩ Huệ là aỉ?

Nhiều cựu gíáo sư Trường Trung Học Đất Đỏ đã từng theo học cô Huệ ở Đại Học  Sư Phạm, Đại Học Văn Khoa, Đại Học Vạn Hạnh ở Sài Gòn trước 1975.  Quí thầy cô gồm có thầy Võ Ngọc Sơn,  thầy Phan văn Nhực, cô Cao thị Thu Thủy, thầy Trương Tấn Trung,  thầy Trần-Văn Phét,  thầy Vương văn Tư, thầy Trần đình Khoa,  cô Nguyễn Thị Nguyệt, cô Nguyễn thị Hương.


Giáo sư Khưu Sĩ Huệ sinh ngày 6 tháng 7 năm 1934 tại Trà vinh, tỉnh Vỉnh bình. 
Cô đi du học ở Đài loan năm 1952, tốt nghiệp cử nhân ở Đại học sư phạm quốc gia Đài loan (National Taiwan Normal University) và dạy học ở Đài loan cho đến khi về nước. Năm 1963 cô tốt nghiệp cao học ở  đại học Chenchi (national Chenchi University) ở phía Nam thành phố Đài bắc.
Cô về nước năm 1963, làm ở bộ giáo dục, sau đó dạy ở Đại Học Sư Phạm Sài gòn cho đến ngày 30-4-1975. Ngoài ra cô còn dạy ở đại học Văn khoa Sài gòn, Đại học Cần Thơ, đại học Vạn Hạnh ở Sài gòn và đại học cao đài ở Tây ninh.

 Cô mất ngày 18 tháng 10 năm 2012 và hỏa táng ngày thứ bảy 27 tháng 10 năm 2012 tại tiểu bang Virginia, Hoa kỳ.

Khóc Cô 

Bốn mươi năm trước chia tay nơi ngưỡng cửa[1]
Cô dặn con tránh khúc khuỷu của cuộc đời
Thương học sinh và thân ái với mọi người
Làm cho đúng với lương tâm người giáo chức
Con nôn nao, lòng biết bao rạo rực!
Về thôn quê nơi cùng cực chân trời [2]
Sống và làm cho hạnh phúc xa xôi
Hy vọng đổi đời các em nơi xóm nhỏ
Mấy tháng trước Cô cùng con to nhỏ
Mà ngày hôm nay Cô lại bỏ con đi
Đứng nhìn Cô mà không nói được câu gì
Mắt ràn rụa, con ngã quị nơi Cô ngủ.
Trời hôm nay, mưa dầm, gió mây ủ rũ![3]
Con tiễn Cô về nơi yên ngủ nghìn thu
Cô ơi! Cô đến miền Cực Lạc xa mù
Nhưng hình ảnh Cô thiên thu con ghi nhớ!
Virginia 27 tháng 10 năm 2012
Trần-Văn Phét




[1] Ngày chọn nhiêm sở: 7 tháng 8 năm 1972

[2] Trung Học Đất Đỏ, quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy

[3] Thời tiết  do cơn bảo Sandy ở miền Đông, Hoa kỳ

Nguồn: http://www.daihocsuphamsaigon.org/index.php/cuusinhvien/tintuc-sinhhoat/1234-khoc-co

Sau đây là bài tham khảo của trường Đại Học Khoa Học Xã hội và Nhân văn :
Bộ môn Hán Nôm

Trước năm 1954, tại Hà Nội, người Pháp cho thành lập một số trường đại học, trong đó có trường Đại học Văn khoa Hà Nội. Trường này bấy giờ chỉ đào tạo và cấp bằng Cử nhân Văn chương. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, thực dân Pháp ký kiệp định Genève...
                                                            
 Nhân sự:
Trưởng Bộ môn - Nguyễn Đông Triều
 I. Lịch sử hình thành và phát triển ngành Hán Nôm

Trước năm 1954, tại Hà Nội, người Pháp cho thành lập một số trường đại học, trong đó có trường Đại học Văn khoa Hà Nội. Trường này bấy giờ chỉ đào tạo và cấp bằng Cử nhân Văn chương. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, thực dân Pháp ký kiệp định Genève, rút về nước. Hầu hết các trường đại học ở Hà Nội đóng cửa và chuyển vào Nam, trong đó có trường Đại học Văn khoa. Khi chuyển vào Nam, trường này đổi tên thành trường Đại học Văn khoa Sài Gòn, cũng chỉ đào tạo và cấp bằng Cử nhân Văn chương cho sinh viên.
1. Đầu thập niên 1960, trường Đại học Văn khoa Sài Gòn thiết lập các văn bằng Cử nhân Giáo khoa. Đồng thời, do nhu cầu đào tạo, trường đã thành lập các Ban (tương đương với các Khoa sau này), trong đó có ban Hán văn là tiền thân của tổ bộ môn Hán Nôm. Ban Hán Nôm đào tạo và cấp chứng chỉ Cử nhân Giáo khoa Hán Nôm.

Nhân sự ban Hán Nôm lúc bấy giờ gồm có:
- Trưởng ban:  GS. Nghiêm Toản
- Ban giảng huấn cơ hữu:   GS. Nghiêm Toản, Trần Trọng San, Lưu Khôn
- Giáo viên thỉnh giảng:  TS. Hán học Nguyễn Sĩ Giác, Cử nhân Hán văn Thẩm Quỳnh, Cử nhân Hán văn Bùi Lương, Cử nhân Hán văn Nguyễn Văn Bình, GS. Bửu Cầm, cùng các thầy cô Người Hoa dạy tiếng Hoa: Đới Ngoạn Quân, Diệp Tuyền Hoa, Khưu Sĩ Huệ.

2. Năm 1969, nhân sự Ban Hán Nôm gồm có:
 - Trưởng ban:  GS. Bửu Cầm
 - Ban giảng huấn cơ hữu:  GS. Bửu Cầm, GS. Nghiêm Toản, các thầy Trần Trọng San, Lưu Khôn, ThS.Nguyễn Khuê, Nguyễn Hữu Lương, TS. Trần Quang Huy.

3. Sau ngày 30/4/1975, trường Đại học Văn khoa Sài Gòn đổi tên thành trường Đại học Văn Khoa TP.HCM. Tổ bộ môn Ngữ văn Việt Nam được thành lập trên cơ sở tiếp quản ban Hán văn và ban Việt văn của trường Đại học Văn Khoa Sài Gòn. Tổ bộ môn Ngữ văn trực thuộc trường, tương đương với một khoa bây giờ.

Tổ trưởng tổ bộ môn Ngữ văn: PGS. Mai Cao Chương

4. Ngày 30/4/1977, trường Đại học Tổng hợp TPHCM ra đời trên cơ sở hai trường Đại học Văn Khoa và trường Đại học Khoa Học cũ. Tổ bộ môn Ngữ văn vẫn là tổ bộ môn trực thuộc trường. Ngành Hán Nôm bấy giờ là một bộ phận của tổ bộ môn Ngữ văn.

Tổ trưởng tổ bộ môn Ngữ văn: PGS. Mai Cao Chương
Tổ phó : Thầy Lưu Khôn
Giảng viên bộ môn Hán Nôm:   GS. Bửu Cầm, các thầy Lưu Khôn, Trần Trọng San, ThS. Nguyễn Khuê, Huỳnh Minh Đức, Trần Quang Huy, Nguyễn Tri Tài, (từ Ban Triết Đông chuyển sang), Phạm Văn Diêu, Trần Đức Rật (từ ban Việt văn chuyển sang).
5. Năm 1978, tổ bộ môn Ngữ văn Việt Nam được nâng lên thành khoa Ngữ văn Việt Nam, trong đó có ba bộ môn: Văn học, Ngôn ngữ và Hán Nôm.

Tổ trưởng bộ môn Hán Nôm: Thầy Lưu Khôn
Giảng viên bộ môn Hán Nôm:   Các thầy Trần Trọng San, Th.S. Nguyễn Khuê, Nguyễn  Tri Tài, Trần Đức Rật

6. Năm 1985 đến 2003, tổ bộ môn Hán Nôm có nhiều thay đổi về nhân sự, có nhiều thầy mất vì cao tuổi, có thầy nghỉ hưu, cũng có nhiều thầy cô là sinh viên được giữ lại bộ môn giảng dạy.

Tổ trưởng bộ môn Hán Nôm:    ThS. Nguyễn Khuê
Giảng viên bộ môn Hán Nôm:   Các thầy cô Nguyễn Tri Tài, Huỳnh Chương Hưng, Nguyễn Nam, Trần Anh Tuấn, Đoàn Anh Loan, Nguyễn Ngọc Quận, Nguyễn Đình Phức, Nguyễn Đông Triều, Vũ Xuân Bạch Dương.

Năm 1994, khoa Ngữ văn đổi tên thành khoa Ngữ văn và Báo chí.

Năm 1996, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM được thành lập. Tổ bộ môn Hán Nôm trở thành một bộ phận trong ngành Ngữ văn thuộc khoa Ngữ văn và Báo chí.

7. Năm 2004-2006, cơ cấu các bộ môn thuộc khoa Ngữ văn và Báo chí vẫn giữ nguyên: Văn học, Ngôn ngữ và Hán Nôm.

Tổ trưởng bộ môn Hán Nôm: TS. Đoàn Ánh Loan
Giảng viên bộ môn Hán Nôm: Các thầy Nguyễn Ngọc Quận, Nguyễn Đình Phức, Nguyễn Đông Triều, Vũ Xuân Bạch Dương, Nguyễn Văn Hoài, Vũ Thị Thanh Trâm.

Nhìn chung, các thầy cô tham gia giảng dạy trong ngành Hán Nôm từ trước 1975 xuất thân từ trường Đại học Văn khoa Hà Nội trước đây và Đại học Văn khoa Sài Gòn khóa đầu tiên. Sau năm 1975, có các thầy cô từ các trường Đại học ở Hà Nội vào hỗ trợ. Đầu những năm 1980 đã có được các thầy cô là lớp sinh viên Hán Nôm đầu tiên sau ngày đất nước thống nhất. Cuối những năm 1990, các thầy cô giảng dạy Hán Nôm xuất thân từ khoa Ngữ văn, thuộc lớp thứ hai. Trong quá trình giảng dạy và nghiên cứu, có một số thầy cô ngành Hán Nôm được học tập, nghiên cứu ở nước ngoài như thầy Nguyễn Nam (học tập Tiến sĩ ở trường Đại học Harvard, Hoa Kỳ), TS. Đoàn Anh Loan (tu nghiệp ở trường Đại học Harvard, Hoa Kỳ), thầy Nguyễn Đình Phức (học tập Tiến sĩ ở trường Đại học Nam Kinh, Trung Quốc)…

Trên dưới 50 năm một chặng đường phát triển của bộ môn gắn liền với sự phát triển của trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. HCM. Càng ngày nhân sự của bộ môn Hán Nôm càng trở nên hùng hậu, chất lượng giảng dạy, nghiên cứu không ngừng được nâng cao, phần nào đáp ứng được sự lớn mạnh của việc nghiên cứu Hán Nôm khu vực phía Nam vốn có truyền thống từ lâu.
Nguồn:

Thứ Hai, 15 tháng 10, 2018

Gạo và bệnh tiểu đường

Ban biên tập xin giới thiệu đến bạn đọc bài viết y học về bịnh tiểu đường của bác sĩ Dương Hồng Mô đăng trên tạp chí "Thời báo" ở Canada. Cám ơn tác giả đã chia xẻ.

Gạo và bệnh tiểu đường

Xã hội Âu Mỹ có những nông dân vô cùng hữu hiệu, chỉ 3% dân số mà nuôi được cả nước và hàng trăm triệu dân thế giới. Có những nhà kinh doanh và công nhân sáng tạo nhất thế giới, làm ra của cảì rẻ và tốt thừa thãi cho cả xã hội. Việt Kiều những nơi đó không bao giờ lo rét vì thiếu quần áo, không bao giờ lo không có phương tiện đi lại kiếm việc làm, ai muốn mặc gì thì mặc, muốn đi đâu thì đi. Và nhất là muốn ăn gì thì ăn, ăn bao nhiêu cũng được..

Ai cũng muốn ăn ngon mặc đẹp.Nhưng ăn ngon có cái nguy hiểm của nó nhất là khi ở những nước sống lâu quá tuổi 60 mới nhìn thấy hậu quả.

Việc đầu tiên là cơm chúng ta ăn. Ở Mỹ hay Châu Âu hay Úc Châu, dân Việt vẫn coi cơm là cơ bản. Dân Á Châu là vậy, di dân sang Mỹ hay Úc họ vẫn coi cơm là món ăn chính, bánh mì không thể thay thế. Vì ăn cơm chặt bụng, no lâu và tiêu hóa dễ chịu hơn bánh mì vì cơm có số lượng nước liên kết chặt chẽ với bột, amylose hay amylopectin.

Và cơm là phải cơm trắng dẻo như Nàng Thơm hay Jasmine Thái Lan hay Kyoto Nhật Bản. Và phải hai bát mỗi bữa tức là phải 300 hay 400gr cơm một bữa..

Ngày xưa tổ tiên chúng ta chọn gạo là đúng vì khí hậu nhiệt đới không thể trồng lúa mì, lúa mì đòi hỏI khí lạnh nhiệt độ 17 độ C. Trồng gạo hai vụ rất lợi cho kinh tế và nhất là hột gạo có những chất bổ vô cùng hấp dẫn cả về phẩm chất cũng như số lượng.

Nhưng tiếc thay bao nhiêu chất bổ tập trung vào vỏ cám ngoài hạt và oái oăm hơn nữa, cám có nhiều chất lipoproteins rất bổ nhưng mau chóng bị chất enzyme lipase trong cám oxy hóa và trở nên khét không dự trữ được. Các cụ chỉ có cách giã gạo cho bớt cám rồi ăn hạt, cám cho heo ăn. Tuy vậy bao gạo cũng không tồn trữ trữ lâu được, phải đến thế kỷ thứ 19, khi Pháp sang làm nhà máy xay lúa mới giải quyết được vấn đề kinh tế, làm sao tồn trữ được bao gạo hàng năm, dùng máy xay cho trắng sạch gạo rồi đánh bóng “Polish” hạt gạo nhẵn và đều. Cám bị loại hết cho heo ăn. Nhưng tai hại cho sức khoẻ con người nhất là dân “khá giả” hay “trưởng giả”, may cho dân nghèo vẫn ăn gạo đỏ hay “gạo Lức muối mè”.

Hạt gạo đã xay máy và đánh bóng chỉ còn chất bột starch mà lúc đó là tinh bột “Refined Starch” nó có đặc điểm của nó. Nó cũngnhư các Refined Starch từ lúa mì, nó không còn chất xơ (Fiber) tập trung trong cám, nó mất đi 67% Vitamin B3, 80% Vitamin B1, 90% Vitamin B6, một nửa số Manganese, môt nửa số Phosphorus, 60% Sắt Iron, 100% Fiber, và tất cả những fatty acids cần thiết. Mất. tất cả Selenium, Magnesium. Đến nỗi theo Luật Hoa Kỳ gạo sản xuất ở Hoa Kỳ phải cho thêm B1, B2 và Iron nhưng cho thêm không thể nào bằng thiên nhiên.

Brown Rice, gạo đỏ cũng được sản xuất ở Hoa Kỳ nhưng không phảI là dễ dàng, phải vô hiệu hóa chất enzyme lipase trong cám nếu không chỉ vài giờ sau là gạo hư. Phần nhiều người ta dùng nhiệt độ 80 độ C xấy khô nhưng gạo đỏ cũng chỉ tồn trữ được 6 tháng.

Khi đã xay vỡ vỏ thóc ngoài cùng, còn lại lớp cám Bran và nhân Germ, xay nữa và mài nữa thì mất lớp Aleurone (rất nhiều chất mỡ rất cần thiết, essential fats). Nhưng như vậy mới tồn trữ được hột gạo trông rất trắng rất đẹp, ăn ngon vì mềm và thơm, nhưng chỉ còn bột Refined Starch.

Nghiên cứu của Đại Học Tufts, Boston Massachusetts cho biết tinh bột Refined Starch được hấp thụ ở ruột rất nhanh và nằm đó dưới tình trạng mỡ, mỡ xung quanh ruột, gan và vùng xương chậu pelvis. Trông không mập, bụng không phệ nhưng có một lượng mỡ quan trọng trong vùng bụng xung quanh ruột .. Có thể người coi ốm chứ không mập.

Đại học Tufts nghiên cứu một số người ăn bánh mì trắng tinh bột so với một số người ăn bánh mì có bran có fiber. Sau 1 năm rưỡi, những người ăn bánh mì tinh bột thấy dây thắt lưng phải nới thêm ( ½ inch mỗi năm). Có vẻ đường hấp thụ thì Insulin đẩy vào tồn trữ ngay trong những tế bào mỡ xung quanh ruột. Và những người đó có nguy cơ bị bệnh tiểu đường loại 2, Diabetes type 2, đường trong máu glycemia cao hơn nhóm ăn bánh mì nâu có bran.
Sau đó nước Mỹ thay đổi cách ăn uống, khẩu hiệu White Bread Round Waist (Bánh trắng bụng tròn) do Bộ Y tế (Dept of Health and Human Services) tung ra và các siêu thị (Super Market) thay đổi bộ mặt tại gian hàng bánh mì. Bánh mì trắng vẫn còn bán nhưng không được trắng lắm vì FDA ra lệnh ít nhất phải 51 % xơ (Fiber) trong bánh mì. Và vô số bánh mì có chứ W tức là Whole grain không được Refined Starch nữa.

Và nay người ta biết tại sao. Các tế bào mỡ vùng xung quanh ruột rất quan trọng trong vai trò điều hòa bằng tín hiệu (signaling), sản xuất nhiều hormons, cytokines đi hoạt động ở nhiều bộ phận vùng bụng như Pancreas. Một cytokine khích động NF-KB pathway làm chất Insulin không còn hữu hiệu nữa. Insulin Resistance (Chống lại Insulin là định nghĩa của Diabetes type 2)

Tiểu đường loại 1 là Pancreas không sản xuất được Insulin hay sản xuất rất ít, phần nhiều người trẻ do di truyền hay cơ thể tự hủy hoại autoimmunity sau khi nhiễm siêu vi trùng ở Pancreas. Tiểu đường loại 2 là sản xuất Insulin nhưng không hữu hiệu tại các tế bào chính địa bàn hoạt động của Insulin không nhận ra Insulin nữa. Insulin có nhiệm vụ là mở chìa khóa cửa các tế bào mỡ, gan và bắp thịt cho đường trong máu vào tồn trữ. Đầu tiên là các tế bào Beta của pancreas cũng không nhận ra Insulin, mất chức năng Feedback điều hòa. Bệnh nhân tiểu đường loại 2 phần nhiều là có tuổi trên 45 khi Insulin và Pancreas bắt đầu thấm mệt. Và người trẻ cũng bi bệnh này nếu quá mập hay ăn quá nhiều đường, số lượng Insulin không cáng đáng nổi.

Con số 22.5% người Việt Nam trên 65 bị tiểu đường loại 2 ở Hoa kỳ không làm ngạc nhiên chút nào. Ông Việt Kiều Hải Ngoại sáng chế ra những thức ăn nhiều bôt tinh chất hay mỡ với số lượng kinh hoàng như bánh mì Ba Lẹ, chiêu với cà phê sữa đặc Ông Thọ hay Borden 30% đường nguyên chất. Xong rồi tráng miệng bằng chè đường. Nhiều gia đình ông tiểu đường, cháu béo phì vì bà chiêu đãi mỗi tối môt bữa chè. Ở Việt Nam cũng vậy từ 10 năm nay giai cấp giầu có cũng béo phì và tiểu đường như hải ngoại. Béo phì ảnh huởng tới genes, bố mẹ béo thì con cũng vậy.

Khi đường trong máu cao thì chỉ có 2 cách chữa chạy, phần nhiều là phải thực hiện cả hai; bỏ đường, bỏ bột tinh chất và cử động bắp thịt (exercise). Nếu không ăn kiêng thì không thuốc nào trị nổi. Có nhiều thực vật có khả năng hạ đường một chút (chúng tôi đã thử một số) như Okra đậu đũa, lá xương rồng, lá dứa, lá ổi, đậu đen, tỏi ta ngâm rượu v.v… nhưng không thay thế nổi insulin và nhất là ăn kiêng (diet). Không thay thế nổi các thuốc hypoglycemiants tác dụng trên pancreas hay gan hay ruột.

Khi đường trong máu lên tới con số trên 126mg/dl khi nhịn đói lúc sáng sớm thì bắt đầu bênh tiểu đường. Và đầu tiên đi nha sĩ vì đường cao đưa đến nhiễm trùng mọi nơi trên cơ thể, đặc biệt là răng và lợi. Trong mồm có môt số lượng lớn vi trùng, 30 thứ vi trùng nhiều thứ ta chưa biết tên. Nhiễm trùng răng lợi đưa đến nhiễm trùng nơi xa xôi như tim (endocarditis) và thận (pyelonephritis)
Khi đường trong máu lên cao, nó tác hại nhẹ nhàng nhưng liên tục tới mọi tế bào đặc biết là tế bào nội mạch (endothelial) trên màng trong các mạch máu.Tế bào bị hư hại và atherosclerosis xuất hiện, cholesterol và calcium đóng mảng (Atheroma Plaque) mở đường cho máu đang chảy bị đông lại (thrombosis). Basement membrane của mạch máu dày thêm nhưng không vì thế mà chắc chắn thêm. Trái lại yếu đi máu thoát vào chảy máu ngay trong thành của mạch. Mạch tắc thiếu dinh dưỡng thiếu oxy cho mọi cơ và bộ phận bị chi phối. Mọi bộ phận từ óc tới ngón chân bị ảnh hưởng, nhưng tai hại nhất là tim, thận, thấu kính (lens) và võng mạc (retina) tại mắt, và tế bào thần kinh. Mọi mạch máu bị ảnh hưởng, từ động mạch lớn, trung và nhỏ. Người bị tiểu đường nếu thoát được bệnh tim mạch (Cardiovascular accident heart attack), đột quỵ (cerebro vascular accident stroke) thì tương lai họ là thận suy phải thường xuyên lọc máu (dialysis). Và cuối cùng là tắc tĩnh mạch sâu ở chân (deep vein theombosis), cuối cùng phải cắt chân.

Chất đường glucose không được dùng hết cho sản xuất năng lực, còn một số chất thải được phân hóa theo glycosalisation bằng hai hệ thống. Hệ thống không cần enzyme, đường dính với protein và từ từ thành những chất trung gian như Schiff base, Amodari products (???) tỷ lệ thuận với đường trong máu. Vì vậy bác sĩ theo dõi tình trạng đường bệnh nhân bằng cách đo Hemoglobin A1C và biết tình trạng trong 6 tuần hay 2 tháng vừa qua, đo đường glycemia chỉ cho biết tình trạng ngày hôm nay mà thôi. Hemoglobin A1 C người thường từ 4 đến 5, tới 5.7 là tình trạng "tiền tiểu đường" hay Prediabetic, 7 là tiểu đường không còn kiểm soát nổi.

Khi chúng ta trình diện tại phòng mạch bác sĩ với tình trạng tiểu đường loại 2 phải chờ đợi một khuyến cáo, ông bác sĩ nào cũng vậy "anh hay chị phải giải quyết cái gánh nặng dư 5 hay 10 ký quá mức thì thuốc mới hữu hiệu". Anh chị ăn ít đi và tập thể dục nhiều lên". Nói thì dễ mà làm thực khó. Một cuộc chiến đấu gay go và cam khổ cả năm hay cả đời lúc thắng lúc bại.

Glycemic Index (GI) là một chỉ số đo số lượng của món ăn về phương diện đường, ăn xong phần nhiều là 50 gr 2 tiếng sau đo đường trong máu, so với 50 gr đường nguyên chất Glucose. Đo diện tích (Area under curve) giữa đường cong và trục X (thời gian, t, số giờ) và tính nếu bằng glucose là GI 100. Nếu chỉ bằng phần mười diện tích đường cong Glucose thì GI là 10. Nếu món ăn được hấp thụ ngay qua ruột như glucose thì GI cao 100 hay gần như vậy. Nhưng nếu món ăn được hấp thụ dần dần một cách nhịp nhàng như trường hợp có nhiều xơ (fiber) thì GI thấp chỉ 10 hay 20.

Tùy món ăn trong ruột được phân hóa nhanh hay chậm, nhịp nhàng hay không, cách kết hợp của chất bột với xơ, với phân tử protein và mỡ, tùy theo chất bột starch ra sao như bột gạo chất amylose cứng có GI thấp, chất amylopectin dẻo thì GI cao. GI gạo trắng cao hơn GI gạo nâu khá xa. Tùy theo số lượng Protein trong món ăn, số lượng organic acid. Ví dụ có dấm thì GI thấp hơn, có mỡ và fiber thì dạ dày chậm mở hơn. Bánh mì nâu GI thấp hơn bánh mì trắng nhưng nếu cho enzymes vào cho dẻo thì GI lên cao ngay. Trái cây và rau có GI đặc biệt thấp nhưng vài trái cây như soài theo kinh nghiệm cá nhân tôi thì GI cao.

Còn về số lượng thì dùng Glycemic Load. Có món ăn rất ngọt nhưng nhiều nước không thể so với món ăn ngọt nặng về đường. Và còn tùy theo khẩu phần (serving) là bao nhiêu, ông Mỹ hay Châu Âu khẩu phần bánh mì trắng là 30-50 gr, ông Việt Nam bánh mì Ba Lẹ tới 300 gr, mập là cái chắc. Cơm trắng ông Mỹ hay ông Úc tính khẩu phần chỉ 150gr cơm, ông Việt Nam hai bát nhỏ là 200 gr rồi.

Glycemic Load là tính theo phưong trình GL= GI x số lượng gr đường trong khẩu phần chia cho 100. Glycemic Load từ 1 đến 10 là thấp, 10 là trung bình, 20 là cao.

Vấn đề ăn uống không thể trông cậy vào ai, phải tự mình lo cho thân mình. Không thể lúc nào cũng ăn môt mình một mâm theo sách vở. Món ăn phải hợp khẩu vì mình ăn không ngon thì không thể nhịn lâu được. Biết bao trường hợp thành công một thời gian rồi đâu vào đó. Phải biết Glycemic Index và Glycemic load của từng món, ăn cho đủ không thể ăn đói..

Glycemic load cao nhất là cơm nếp rồi tới cơm hay cháo đặc trắng rồi tới cơm hay cháo đặc gạo nâu vì có cám. Bánh mì bagel trắng GL cao nhất là 28, baguette của Pháp GL 15. Bánh mì whole wheat chỉ có 9, whole grain bread chỉ có 7, Cơm Gạo Jasmine được dân Việt Kiều ưa chuộng cao kỷ lục về cả GI lẫn GL. Chúng ta bị mập béo tiểu đường là lẽ dĩ nhiên. Chúng ta không cần biết tới khuyến cáo Bộ Y Tế Mỹ, vẫn khư khư bám lấy gạo Thái Lan Nàng Thơm cho khoái khẩu. Chúng ta không cần biết vì không muốn biết.

Nghiên cứu từ Đại Học Harvard đăng trong American Journal of Nutrition. Nghiên cứu 12 năm liền với 74,000 nữ điều dưỡng cho thấy càng ăn nhiều chất xơ fiber thì càng bớt cân.

Gạo trắng mất đi 45% trọng lượng hat nguyên thủy khi mất vỏ Bran cám, nguy hại không phải chỉ về vấn đề đường mà thôi. Nguy hiểm hơn nữa là mất rất nhiều dinh dưỡng không thể thay thế được. Mớ mỡ xung quanh ruột và tràn ra máu Triglycerides cao rất khó giải quyết vì thiếu nhiều công cụ để phân hủy mỡ. Khó giải quyết vì nằm sâu trong bụng, xa các bắp thịt chân và tay.

Muốn giải quyết lớp mỡ phải cần tới hàng ngàn phản ứng Enzyme phân hóa và trao đổi hàng ngàn metabolites. Phải cần nhiều loại enzymes chống oxydation các fatty acids. Cám Bran có 120 chất antioxydants, có đầy đủ sinh tố (Vitamins) chỉ trừ có Vitamin D và C. Có đầy đủ các loại phytosterols, Beta sitosterols, fibers, Vitamin E Complex, đầy đủ các loại B Complex B1 B2, B3 ngay cả Vitamin B15 hiếm có. Có Enzyme Q 10, nhất là Omega 3, Omega 6 fatty acids, không có thì không thể giải quyết được  Triglycerides cao trong máu. Omega 3 fatty acids trong dầu cá fish oil dùng để trị mỡ Triglycerides cao trong máu đã được các bác sĩ dùng từ lâu, 3 viên mỗi viên 1000 mg Omega 3 fatty acids có thể giảm lượng Triglycerides 300 hay 350mg/dl xuống 150 trong vòng vài tháng.
Tiếc thay một phần lớn những chất bổ đó bị hủy nếu đun sôi trong 45 phút. Tiếc thay cám gạo "mỏ vàng chất bổ" dùng để làm cám nuôi heo.

Dầu trong cám chứa nhiều Antioxydants hơn mọi thứ dầu thực vật khác, , Vitamin E tocopherol, tocotrienol và nhất là oryzanol (2417 phần trong 1 triệu), hơn hẳn cả về lượng cũng như phẩm dầu đậu soybean, bắp corn, canola, cotton seed, sunflower.

Có Enzyme thì phải có Co Enzyme. Cám cho ta đầy đủ số lượng Manganese, Selenium, Magnesium.Mn là Coenzym cho nhiều phản ứng antioxidant. Nhiều phản ứng phát sinh năng lượng, phân hóa và sản xuất proteins, fatty acids, cholesterol, metabolites cho sex hormons và mediators cho tế bào thần kinh.
Selenium quan trọng không kém, phối hợp chặt chẽ với xơ trong tiêu hóa và chống oxydation. Đặc biệt chống ung thư (?), phối hợp với Glutathion, sinh tố E.

Magnesium phối hợp chặt chẽ với Ca, được gọi là Calcium channel blocker thiên nhiên, không thể thiếu trong mọi phạm vi hoạt động của Ca như xương, thần kinh, và bắp thịt.

Vì thế gạo trắng tinh chúng ta ăn thiếu những dinh dưỡng cần thiết. Gây cho chúng ta những vấn đề như tiểu đường loại 2. Không thể giải quyết được nạn Việt kiều tiểu đường loại 2 nếu không đi vào nguyên nhân như người Mỹ đã làm. Không dễ đâu vì người Mỹ cũng có một số nhất định vẫn ăn bánh mì trắng. Dân Việt cũng như dân Á Châu khác có vẻ cứ ăn gạo ngon, bệnh tật tính sau, 

Nam Minh Bách(BS Dương Hồng Mô) - Virginia Jan

Chủ Nhật, 14 tháng 10, 2018

Chương trình và sách giáo khoa môn Văn bậc trung học ở miền Nam trước năm 1975


Chương trình và sách giáo khoa môn Văn bậc trung học ở miền Nam trước năm 1975

PGS.TS. Nguyễn Công Lý
Trường ĐHKHXH&NV-ĐHQG TP. HCM
1. Giới thiệu về chương trình khung môn Văn bậc trung học ở miền Nam trước 1975
1.1. Tên gọi môn học
Trong chương trình Trung học đệ nhất và đệ nhị cấp (nay là Trung học cơ sở và Trung học phổ thông) ở miền Nam trước năm 1975 thì tên môn học là Quốc văn, nhưng các soạn giả khi biên soạn sách giáo khoa thì ghi là Quốc văn hay Quốc văn độc bản như bộ sách của Trần Trọng San; Việt văn như bộ sách của Võ Thu Tịnh; Giảng văn như bộ sách của Đỗ Văn Tú và bộ sách của Thậm Thệ Hà (một số quyển có sự cộng tác của Xuân Tước và Bằng Giang); Việt Nam thi văn trích giảng như sách của Tạ Ký.
 
Cần lưu ý là trước năm 1975 ở miền Nam, Bộ Quốc gia Giáo dục chỉ ra Sắc lệnh hoặc Nghị định về chương trình khung (nội dung giảng dạy, tác giả, tác phẩm, thời lượng cho từng tác giả tác phẩm, v.v..) cho từng lớp của cấp học, chứ Bộ không độc quyền biên soạn hay chỉ đạo việc biên soạn sách giáo khoa mà việc này Bộ để cho các nhà giáo có khả năng, có kinh nghiệm và uy tín đang giảng dạy cấp trung học trực tiếp biên soạn, thông qua Ban Tu thư của một vài Nhà xuất bản như Sống Mới, Khai Trí, Văn Hào v.v.. tổ chức in ấn. Dĩ nhiên những bộ sách giáo khoa này trước khi xuất bản, được đưa vào giảng dạy trong nhà trường trung học toàn miền Nam thì chúng phải được Hội đồng thẩm định thuộc Trung tâm học liệu của Bộ Giáo dục xét duyệt, bỏ phiếu đồng ý tán thành. Hội đồng gồm một Chủ tịch và các thành viên, mà các vị này đều là những học giả, nhà nghiên cứu, nhà giáo có kinh nghiệm và uy tín. Còn các loại sách khác như biên khảo và dịch thuật thì do Hội đồng thẩm duyệt của Phủ Quốc vụ khanh đặc trách Văn hoá đảm nhận. Khi giảng dạy, các giáo viên (hồi ấy gọi là giáo sư) bám vào chương trình khung mà soạn bài giảng, tự chọn sách dạy và định hướng cho học sinh của mình nên mua sách giáo khoa của soạn giả nào để học. Và dĩ nhiên, không loại trừ có học sinh cùng một môn học mà lại mua vài ba bộ sách khác nhau để học tập và tham khảo nếu gia đình học sinh đó có điều kiện về kinh tế. Riêng môn Văn như trên đã nêu, có nhiều bộ sách giáo khoa của các soạn giả: Đỗ Văn Tú, Thẩm Thệ Hà, Trần Trọng San, Võ Thu Tịnh, Tạ Ký, v.v.. trong số đó hai bộ sách của hai soạn giả Đỗ Văn Tú, Thẩm Thệ Hà là được dùng phổ biến rộng rãi trong nhà trường ở các tỉnh thành miền Nam.  
Ở đây, bài viết sẽ giới thiệu khung chương trình môn Văn cập nhật hoá và sách giáo khoa được biên soạn theo chương trình này được áp dụng từ niên khoá 1969-1970 trở đi ở miền Nam, trên cơ sở đó nêu lên vài nhận xét về chương trình và các sách giáo khoa đó.
1.2. Yêu cầu của môn học
Theo tinh thần nội dung của Sắc lệnh số 660/TT/SL ngày 01-12-1969 và Nghị định số 1152A GD/KHPC/ND ngày 26-6-1970 về Chương trình Cập nhật hoá của Bộ Quốc gia Giáo dục, cùng Huấn thị của Bộ về việc giảng dạy Quốc văn thì:
Mục đích: Mục đích của môn Giảng văn là làm cho học sinh thấu hiểu giá trị về hình thức và nội dung của một tác phẩm hay một đoạn văn, để nhờ đó hun đúc tính khí và tâm hồn, mở mang kiến thức về văn học và thâu thái những điều bổ ích cho việc luyện văn.
Phần Kim văn: Hình thức và nội dung của những bài Giảng văn phải phù hợp với chương trình Luận văn được giảng dạy: chẳng hạn, dạy những bài Giảng văn có tính cách miêu tả trong giai đoạn dạy Luận văn về loại miêu tả; những bài giảng văn có tính cách thuật sự trong giai đoạn dạy Luận văn về loại thuật sự, v.v..
Phải lựa những bài văn có giá trị để rồi bắt học sinh học thuộc lòng nhằn rèn luyện ký ức văn khiếu.
Phần Cổ văn: Phải chọn những đoạn rất tiêu biểu, nhiều hay ít, dài hay ngắn tuỳ theo lớp và cấp học (về điểm này, Bộ có những chỉ thị rõ ràng để ấn định nên trích những đoạn nào có trong một tác phẩm, giảng những bài nào của một tác giả).
Việc đọc sách: Giáo sư phải hướng dẫn học sinh đọc sách. Học sinh phải có vở riêng để ghi chép những đoạn văn hay, tóm lược cuốn sách đã đọc. Mỗi tháng giáo sư nên kiểm soát vở đó một lần để theo dõi sự tự học của học sinh, khuyến khích sự đọc sách cho thành một sự ham mê để khi ra đời, học sinh nhờ đó mà luôn luôn tiếp tục việc học hỏi.
Thuyết trình văn học: Bên cạnh việc đọc sách ở nhà, chương trình còn yêu cầu học sinh Thuyết trìnhvăn học tại lớp (từ lớp 6 đến lớp 11) ít nhất mỗi tháng một lần (02 giờ) về một tác phẩm, một vấn đề văn học nào đó có trong chương trình chính khoá, mà thường thuyết trình về các tác phẩm thuộc Kim văn, tức văn học hiện đại, chẳng hạn như tìm hiểu về các tác phẩm của Tự Lực văn đoàn như: Đoạn tuyệt (Nhất Linh), Nửa chừng xuân và Hồn bướm mơ tiên (Khái Hưng), Con đường sáng và Mười điều tâm niệm (Hoàng Đạo), Anh phải sống (Khái Hưng và Nhất Linh), Gió đầu mùaSợi tóc, Hà Nội băm sáu phố phường (Thạch Lam), Hồn quê(Nguyễn Khắc Mẫn), Quê mẹ (Thanh Tịnh), v.v..; hay thơ lãng mạn của các tác giả: Thế Lữ, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Huy Cận, Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư v.v.. Có khi thầy cô giáo cho thuyết trình các tác phẩm văn học đương đại của các tác giả như: Võ Phiến, Võ Hồng, Duyên Anh, Nhã Ca, Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Thị Vinh, Nguyễn Thị Bảo, Duy Lam, Thế Uyên v.v.. mà những giờ thuyết trình trước lớp có thể nói là những giờ học đầy hứng thú, phấn khởi. Cả nhóm hay tổ đọc tác phẩm, đọc tài liệu nghiên cứu rồi trao đổi, làm chung một đề tài để trình bày trước lớp, sau đó cả lớp trao đổi, chất vấn, phản biện, v.v.. mà thầy cô giáo dạy Văn là người chứng kiến và đóng vai trò chỉ đạo, nhận xét đánh giá.
Việc thuyết trình văn học trước lớp theo tôi là rất có ích, bởi rèn luyện cho học sinh kỹ năng tự học, kỹ năng làm việc độc lập và làm việc theo nhóm, hình thành cho học sinh tính mạnh dạn, tự tin khi tập nói chuyện, tập diễn giảng một vấn đề nào đó về văn chương trước tập thể bạn bè, mà việc này, chương trình môn học đã có yêu cầu ngay từ lớp Đệ Thất (lớp 6), tức rèn luyện cho học sinh khi mới ở độ 11 - 12 tuồi.    
1.3. Về nội dung chương trình khung của môn học
1.3.1. Chương trình Trung học đệ nhất cấp
Trung học đệ nhất cấp có bốn lớp: Đệ thất, Đệ lục, Đệ ngũ, Đệ tứ (từ niên khoá 1969-1970 gọi là lớp Sáu, lớp Bảy, lớp Tám, lớp Chín). Nội dung chương trình khung môn Văn cập nhật hoá của cấp học này được quy định như sau:
Lớp Sáu
Giảng văn: gồm hai phần Kim văn và Cổ văn.
Kim văn: chọn tác phẩm của các nhà văn hiện kim, phù hợp với chương trình luận văn với các thể văn Miêu tả (tả động vật, tả thực vật, tả đồ vật, tả người, tả cảnh), Thuật sự, Thư tín.
Cổ văn: trích giảng Văn vần: Tục ngữ, Ca dao; Văn xuôi: Truyện cổ tích Hưng Đạo đại vương truyện bản kể của Phan Kế Bính và của Nguyễn Văn Ngọc; Nam Hải dị nhân bản kể của Phan Kế Bính; Truyện cổ nước Nam bản kể của Nguyễn Văn Ngọc.
Văn thể: Thơ Lục bát và biến thể.
Luận văn: Miêu tả (có tính cách cụ thể), Thuật sự (những việc thông thường), Thư tín (thăm viếng, giao thiệp thông thường).
Lớp Bảy
Giảng văn: gồm hai phần Kim văn và Cổ văn.
Kim văn cũng như ở lớp Sáu nhưng chọn nhiều bài về văn Thuật sự và văn Miêu tả phối hợp Thuật sự, Thư tín.
Cổ văn trích giảng cả văn vần và văn xuôi. Về văn vần, chọn trích giảng Gia huấn ca của Nguyễn Trãi [1]Đại Nam quốc sử diễn ca của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái. Về văn xuôi, chọn trích giảng Truyện cổ qua Chuyện đời xưa của Trương Vĩnh Ký, Chuyện giải buồn của Huình Tịnh Của.
Văn thể: Thơ Song thất lục bát và biến thể.
Luận văn: chủ yếu là làm văn Thuật sự và văn hỗn hợp vừa Miêu tả vừa Thuật sự.
Lớp Tám
Giảng văn: gồm hai phần Kim văn và Cổ văn.
Ở phần Kim văn, chương trình yêu cầu hình thức và nội dung các bài Giảng văn phải phù hợp với chương trình Luận văn, chẳng hạn đang học Luận văn về văn Miêu tả thì ở Giảng văn phải chọn những bài văn Miêu tả để giảng, minh hoạ, củng cố kiến thức Luận văn; đang học Luận văn về văn Thuật sự thì ở Giảng văn phải chọn những bài văn Thuật sự để giảng, minh hoạ, củng cố kiến thức Luận văn. Phải chọn những bài văn tiêu biểu, có giá trị, học sinh phải học thuộc lòng để luyện ký ức văn khiếu. Văn nghị luận của Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Bá Học, Phan Kế Bính, và những bài trích lục từ các tạp chí: Đông Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí, Tri Tân, Thanh Nghị, Tao Đàn.
Phần Cổ văn trích giảng thơ Lê Thánh Tông và hội Tao Đàn, thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, thơ Bà huyện Thanh Quan, thơ Nguyễn Đình Chiểu (Lục Vân Tiên).
Văn thể: Thơ Đường luật.
Luận văn: làm các thể văn Miêu tả, Thuật sự, Đơn từ, Tờ trình, Văn tự (có tính thực tế), Nghị luận luân lý (dạng thông thường).
Lớp Chín
Giảng văn: gồm hai phần Kim văn và Cổ văn.
Phần Kim văn, trích giảng văn Nghị luận của Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Phan Chu Trinh, và trích các bài nghị luận trên các tạp chí: Đông Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí, Tri Tân, Thanh Nghị, Tao Đàn của các tác giả khác.
Phần Cổ văn, trích giảng thơ của các tác giả: Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Tôn Thọ Tường, Phan Văn Trị, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh.
Văn thể: Hát nói.
Văn học sử: Đại cương văn học sử Việt Nam từ khởi thuỷ đến hiện kim.
Luận văn: kiểu bài Nghị luận văn chương.
1.3.2. Chương trình Trung học đệ nhị cấp
Trung học đệ nhị cấp gồm ba lớp: Đệ tam, Đệ nhị, đệ nhất (từ niên khoá 1969-1970 gọi là lớp Mười, lớp Mười một, lớp Mười hai).
Trung học đệ nhị cấp ở miền Nam học theo chương trình phân ban. Ban A chuyên sâu về Hoá, Sinh; Ban B chuyên sâu về Toán, Lý; Ban C chuyên sâu về Sinh ngữ (Anh, Pháp) và Văn chương, Triết học (Triết học chỉ học ở lớp Đệ Nhất (tức lớp 12); Ban D chuyên sâu về Cổ ngữ (Hán, Nôm) và Văn chương, Triết học (Triết học chỉ học ở lớp Đệ Nhất (tức lớp 12). Ở đó, chương trình môn Văn ở hai ban A và B thì học gọn hơn, ít hơn so với ban C và D. Do vậy, ở đây chỉ nêu lại chương trình môn Văn cập nhật hoá của ban C, D là ban chuyên về Văn chương, Sinh ngữ, Cổ ngữ mà thôi.
Lớp Mười
Văn học sử: Văn chương truyền khẩu (Văn chương bình dân); Văn chương chữ Nôm từ đầu nhà Trần (Hàn Thuyên) đến Nguyễn Du; Giới thiệu thơ chữ Hán và truyện cổ tích.
Văn thể: Đối, Phú, Văn tế.
Giảng văn: chỉ học phần Cổ văn, cụ thể là trích giảng thơ Nôm thời Hồng Đức của Lê Thánh Tông và Hội Tao Đàn, thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Nguyễn Huy Lượng, Phạm Thái, Đặng Đức Siêu, Nguyễn Văn Thành, Chinh phụ ngâm khúcCung oán ngâm khúcHoa tiên truyệnĐoạn trường tân thanh, vở tuồng Kim Thạch kỳ duyên.
Luận văn: kiểu bài Nghị luận văn chương.
Lớp Mười một
Văn học sử: Văn học Việt Nam từ sau Nguyễn Du đến 1945, gồm văn học chữ Nôm và văn học chữ Quốc ngữ.
Văn thể: thơ Đường luật, ôn lại Hát nói, học kỹ Thơ Mới.
Đọc bổ túc: Giới thiệu tác phẩm Hán văn.
Giảng văn: gồm hai phần Kim văn và Cổ văn.
Phần Cổ văn, trích giảng thơ văn của các tác giả: Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Đình Chiểu (thơ và văn tế), Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh, Trần Tế Xương, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (thơ), đọc thêm: Cao Bá Nhạ, Dương Khuê.
Phần Kim văn: Lược khảo Đông Dương tạp chí, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Kế Bính; Lược khảo Nam Phong tạp chí, Phạm Quỳnh, Nguyễn Trọng Thuật; Lược khảo Tự Lực văn đoàn; Nhất Linh với tác phẩm Đoạn tuyệt; Khái Hưng với tác phẩm Nửa chừng xuân; Hoàng Đạo với tác phẩm Mười điều tâm niệm
Luận văn: kiểu bài Nghị luận văn chương về các tác phẩm của các tác giả đã học trong chương trình.
Lớp Mười hai
Từ sau năm 1954 đến năm học 1973-1974, chương trình lớp 12 không học môn Văn, thay vào đó là môn Triết học. Nhưng riêng năm học 1974-1975 chương trình có sự thay đổi lớn, ở lớp 12 bên cạnh môn Triết học, còn có học thêm môn Văn, cụ thể là phần Kim văn với văn chương hiện thực 30 năm đầu thế kỷ XX (Phạm Duy Tốn, Nguyễn Trọng Thuật, Vũ Đình Long…); văn chương hiện thực phê phán 1932-1945 (Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Hồ Biểu Chánh…) và văn chương đương đại. Chương trình này chỉ mới triển khai trong mấy tháng (từ tháng 9-1974 đến đầu tháng 3-1975), bởi từ đầu tháng 3-1975 là thời điểm diễn ra chiến dịch Giải phóng miền Nam, nhà trường buộc phải đóng cửa, học sinh nghỉ học.
2. Về sách giáo khoa bậc Trung học môn Văn ở miền Nam trước 1975
Từ chương trình khung như trên, các soạn giả sách giáo khoa đã căn cứ vào đó để biên soạn sách giáo khoa môn Văn. Cụ thể như sau theo chương trình cập nhật hoá từ niên khoá 1970-1971 và 1971-1972 (xin lấy dẫn chứng từ bộ sách giáo khoa của Thẩm Thệ Hà, có Xuân Tước và Bằng Giang tham gia biên soạn ở một số lớp):
2.1. Sách giáo khoa Giảng văn lớp 6, phần Kim văn, đã chọn giảng các bài học như sau:
Văn miêu tả với các kiểu bài: Tả động vật (Con gà trống gi - Tô Hoài, Con mèo mướp - Tô Hoài, Mèo hoang - Xuân Diệu); Tả thực vật (Cây tre - Thạch Lam, Cây tràm và cây mắm - Bình Nguyên Lộc, Hoa học trò - Xuân Diệu, Hoa sen - Thạch Lam); tả đồ vật (Bức ảnh kỷ niệm - Tô Hoài, Con búp bê của Phượng - Nhật Tiến); Tả người (Chị Doãn - Vũ Trọng Phụng, Bà Phán - Tô Nguyệt Đình, Cụ Giáp - Khái Hưng, Người bạn cũ - Tô Nguyệt Đình, Năm Cụt - Nguyễn Văn Xuân, Lão lắc đầu - Phan Du); Tả cảnh (Ấp Đình Trung - Tô Nguyệt Đình, Hòn non bộ - Nhất Linh, Trong vườn dâu - Thẩm Thệ Hà, Trong thế giới bùn lầy - Bình Nguyên Lộc, Sông Cửu Long - Dương Tự Quán, Cảnh đêm trăng - Thạch Lam, Trong bóng hoàng hôn - Ngọc Linh, Trưa hè ở thôn quê- Trần Tiêu, Làng Thanh Mai - Lý Văn Sâm, Những kẻ không nhà - Lý Văn Sâm, Nhớ nhà - Nguyễn Khắc Mẫn, Câu cá - Tchya, Trở rét - Bàng Bá Lân, Sau một đêm mưa - Trang Thế Hy, Một đám cháy - Tô Nguyệt Đình, Tiếng dế đêm khuya - Ngọc Linh)
 Văn thuật sự: Khổ qua trái mập trái tròn - Truy Phong, Loài chim hung dữ - Thẩm Thệ Hà, Tết - Đoàn văn Cừ, Thuỷ tiên - Hoàng Đạo, Ngày xuân đi lễ đền - Nguyễn Thị Vinh, Bẻ lộc - Nguyễn Thị Vinh.
Văn thuật sự phối hợp với miêu tả: Bến My Lăng - Yến Lan, Khói trắng - Kiên Giang, Tình bà cháu - Nguyễn Thị Vinh, Vẽ tranh - Nhất Linh, Đi tìm cái đẹp - Nhất Linh, Đói - Thạch Lam, Phút vĩnh biệt - Khái Hưng, Thế thì hoà - Khái Hưng.
Thư tín: Đi nghỉ mát viết thư cho bạn - Khái Hưng, Thư của một nhà văn gởi cho anh - Đỗ Tốn, Bức thư vĩnh biệt - Suzuki.  
Trích lục: Đá vọng phu - Quách Tấn, Chiếc áo rách tay - Toan Ánh, Lịnh cha - Nhượng Tống, Một cách rửa nhục sai lầm - Nguyên Sa, Tháng đợi năm chờ - Truy Phong, Đá cá thia lia - Sơn Nam, Lỡ đàng - Phan Du, Vượt thắng thiên nhiên - Nguyễn Văn Xuân, Cảnh nhà nghèo ở thôn quê - Nguyễn Văn Xuân, Bờ ao quê cũ - Đỗ Tốn, Tình quê hương - Đỗ Tốn.   
Phần Cổ văn, sách giáo khoa đã chọn giảng các bài học như sau:
Văn thể: Thơ Lục bát, Ca dao, Tục ngữ.
Trích lục Ca dao: Thằng Bờm, Chê bai bóng gió, Ngát đượm tình quê, Tả cảnh dân quê, Bên hiếu bên tình, Cảnh chồng đắm mê cờ bạc, Hò kéo gỗ, Buôn tảo bán tần.
Truyện Cổ tích:
- Hưng Đạo đại vương truyện của Phan Kế Bính và Lê Văn Phúc: Giới thiệu tiểu sử, tác phẩm; Trích đoạn: Trần Quốc Toản, Trần Bình Trọng tử tiết, Trận Hàm Tử, Trận Tây Kết, Trận Bạch Đằng.
- Nam hải dị nhân của Phan Kế Bính: Giới thiệu bố cục, nội dung; Trích đoạn: Lý Thái Tổ, Lý Thường Kiệt, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Hiền, Chử Đồng Tử, Tản Viên sơn thần, Từ Đạo Hạnh, Trần Lộc, Tả Ao.
- Truyện cổ nước Nam của Nguyễn Văn Ngọc: Giới thiệu tác giả, tác phẩm; Trích đoạn: Quyển I. Người ta: Cái cân thuỷ ngân, Giả chết chờ quạ, Sinh con rồi mới sinh cha, Phượng hoàng đậu cây khế, Đổi lòng lành, Người ăn mía và người chủ vườn, Người học trò với con rùa, Có ai làm chứng, Vợ hai vợ cả, Mài dao dạy vợ, Giết chó khuyên chồng, Ăn mày đánh đổ cầu ao, Tam đại con gà. Quyển II. Muông chim: Con cóc là cậu ông Trời, Con chèo bẻo, Con tôm vàng, Quạ bắc cầu, Tu hú và quạ, Long vương và con éch, Hai vợ chồng con chiền chiện và ông sư, Cô mèo cháu cọp, Con cóc và con cọp.     
2.2. Sách giáo khoa Giảng văn lớp 7, phần Kim văn, đã chọn giảng các bài học như sau:
Bài tham khảo: Con đường sáng - Hoàng Đạo, Mòn mỏi - Thanh Tịnh.
Văn miêu tả với ba kiểu bài (tả cảnh, tả người, tả tình): Thu về - Vita, Thu cảm - Khái Hưng, Trăng thu - Khái Hưng, Đêm trăng chơi Hồ Tây - Phan Kế Bính, Đêm trăng của người nghèo - Trang Thế Hy, Đêm liên hoan- Thẩm Thệ Hà, Một đêm mưa bão - Hàn Thế Du, Một đêm mưa - Thạch Lam, Cái đêm lịch sử đối với dân làng Thuỵ - Đỗ Thúc Vịnh, Lời cuối cùng - Thanh Tịnh, Đời sống dân quê - Nhất Linh, Vỡ đê - Hoàng Đạo, Con thuyền ngược nước - Nhất Linh, Giữa biển khơi - Nguyễn Trọng Thuật, Đẩy thuyền - Khái Hưng, Xóm Vĩ Dạ - Trần Thanh Mại, Giờ đánh trâu về - Trần Tiêu, Dân quê chạy loạn - Đỗ Thúc Vịnh.
Văn thuật sự với ba kiểu bài (ký sự, tự thuật, hồi ký): Tình ông cháu - Nhượng Tống, Một đứa bé mồ côi - Vũ Trọng Phụng, Ngày lên đường - Hổ Dzếnh, Một người sung sướng - Khái Hưng, Con người quả cảm - Tô Nguyệt Đình, Một cuộc chia ly - Tô Nguyệt Đình.
Văn thuật sự phối hợp với miêu tả: Nhớ cố hương - Vita, Một chuyến về quê - Thạch Lam, Quảng đời niên thiếu - Nhượng Tống, Sống lại tuổi thơ - Bình Nguyên Lộc, Hồn ma cũ - Bình Nguyên Lộc, Ma - Trần Tiêu, Chợ Tết - Đoàn Văn Cừ, Ông Đồ - Vũ Đình Liên, Đi hái lộc - Hoàng Đạo, Đồng hào mới - Thạch Lam, Hộp kẹo - Hoàng Đạo, Tết ly loạn - Đỗ Thúc Vịnh, Một bệnh viện trên ngọn đồi - Vũ Trọng Phụng, Vườn hoa trong bệnh viện - Thẩm Thệ Hà, Sợ chết - Đỗ Đức Thu, Nhạc sĩ giang hồ - Xuân Tước, Anh phải sống - Khái Hưng, Tiếng địch véo von - Khái Hưng, Sự tích chùa Long Giáng - Khái Hưng, Tỉnh giấc cô miên - Truy Phong.  
Thư tín: Thư cho con - Hà Mai Anh (dịch), Thư cho em - Toàn Phong, Thư cho bạn - Linh Bảo, Thư cho một nhà văn - Thu Vân
Trích lục: Giã gạo chày ba - Truy Phong, Trong thư viện - Hoàng Đạo, Sơn Tinh Thuỷ Tinh - Nguyễn Nhược Pháp, Một trang thiến niên - Lê Văn Trương, Hoa súng - Đinh Gia Trinh, Qua trường cũ - Hoài Tân, Cái miếu cô hồn - Hoài Tân, Sống cùng vạn vật - Khái Hưng, Ca khúc khải hoàn - Lan Khai, Đêm ngày mùa - Hoàng Đạo, Buổi chiều trên bờ sông - Xuân Tước, Tiếng trúc tuyệt vời - Phan Du.  
Phần Cổ văn, sách giáo khoa Giảng văn lớp 7 đã chọn giảng các bài học như sau:
Văn thể: Thơ Song thất lục bát, Thơ Song thất lục bát biến thể.
Tác phẩm Gia huấn ca: Giới thiệu tác phẩm; Tiểu sử Nguyễn Trãi; Vụ án Lệ Chi viên. Trích giảng: Dạy vợ con, Việc thờ cúng, Dạy con ở cho có đức, Dạy con gái, Khuyên học trò chăm học, Dạy con phải có lòng nhân nghĩa, Khuyên con học văn chương, Khuyên noi gương người xưa (Về tác giả của tác phẩm này, xin xem chú thích ở trước).
Tác phẩm Đại Nam quốc sử diễn ca: Nguồn gốc và nội dung tác phẩm; Tiểu sử Lê Ngô Cát; Tiểu sử Phạm Đình Toái. Trích giảng: Phù Đồng Thiên vương, Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt phá Tống bình Chiêm, Trần Hưng Đạo phá Mông Cổ, Lê Thái Tổ phá giặc Minh, Bà Triệu Ầu đánh Ngô, Lý Nam Đế dựng nền độc lập, Quang Trung đại phá quân Thanh, Cuộc lưu vong của Lê Chiêu Thống.
Truyện cổ: Chuyện đời xưa: Tiểu sử Trương Vĩnh Ký; Giới thiệu tác phẩm Chuyện đời xưa. Trích giảng: Hữu dõng vô mưu, Tích hang ông Từ Thức, Ông Trạng Quỳnh, Ba anh dốt làm thơ, Bốn anh tài, Thằng chồng khờ ngồi ăn có dây dụi, Chàng rễ bắt chước cha vợ. Chuyện giải buồn: Tiểu sử Huình Tịnh Của; Giới thiệu tác phẩm Chuyện giải buồn. Trích giảng: Chí khí cao, Truyện ông Tấn sĩ lưng mọc lông dê, Vẽ hình vay bạc, Quân tử khả khi dĩ kỳ phương, Mua cua.     
2.3. Sách giáo khoa Giảng văn lớp 8, phần Cổ văn đã chọn giảng các bài học sau:
Trích giảng thơ của Lê Thánh Tông: loại thơ khẩu khí (Cái chổi. Đọc thêm: Con cóc, Dệt vải, Bù nhìn, Thằng mõ); loại thơ tình cảm (Đề miếu nàng Trương. Đọc thêm: Tiễn sứ giả, Hương Sơn phong cảnh); loại thơ miêu tả cảnh trí (Đèo Ngang. Đọc thêm: Đề đền Sầm Nghi Đống - Hồ Xuân Hương, Qua đèo Ngang - Bà huyện Thanh Quan, Đèo Ba Dội - Hồ Xuân Hương). Tổng kết về thơ của Lê Thánh Tông. Bài khảo sát: Cối xay, Điếu Lê Khôi, Người nấu bếp, Hoa sen.
Trích giảng thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm: loại thơ nhàn[2] (Thơ nhàn. Phụ tuyển: Vui cảnh nhàn, Mùa thu đi chơi thuyền, Nhẹ đường danh lợi. Đọc thêm: Dại khôn - Trần Tế Xương); loại thơ nhân tình thế thái (Thế thái nhân tình. Phụ tuyển: Thói đời, Dĩ hoà vi quý); loại thơ sấm (Cảm hứng); Tổng kết về thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài khảo sát: Đợi thời, Cuộc điền viên, Xem thường công danh, Thú tiên khách. 
Trích giảng Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu: Vân Tiên gặp Nguyệt Nga, Thương ghét việc đời, Vương Tử Trực mắng cha con Võ Công, Tổng kết về Lục Vân Tiên. Bài khảo sát: Lời tôn sư, Nguyệt Nga khóc Vân Tiên, Lời ông câu, Ác lai ác báo.
Trích giảng thơ của Bà huyện Thanh Quan: Qua đèo Ngang, Thăng Long thành hoài cổ. Bài khảo sát: Chiều hôm nhớ nhà, Buổi chiều lữ thứ. Đọc thêm: Trấn Bắc hành cung hoài cổ, Tức cảnh chiều thu. Tổng kết về thơ Bà huyện Thanh Quan.
Văn thể: Thơ Đường luật.
Phần Kim văn, sách đã chọn giảng các bài học như sau:
Văn miêu tả hoạt cảnh phức tạp: Ngày khai trường - Anatole France, Trong phòng khách đợi - trích Giông tố của Vũ Trọng Phụng. Đọc thêm: Tôi đi học - trích Quê mẹ của Thanh Tịnh, Buổi học đầu tiên - trích Quê mẹ của Thanh Tịnh, Con thuyền ngược nước - Nhất Linh (báo Văn hoá Ngày nay).
Văn thuật sự thông thường: Lòng mẹ hy sinh - Alfred de Musset, Tấm lòng người chị - Thạch Lam, Đám cưới nhà quê - trích Đồng quê của Phi Vân. Đọc thêm: Buổi học cuối cùng -Alphonse Daudet, Mưu cụ Đốc - trích Đội mũ lệch của Khái Hưng, Tết ở Sài Gòn - Trần Văn Lai (báo Ngày nay), Những mơ ước của người xưa - trích Ngày xưa của Trần Văn Lang (báo Tiểu thuyết thứ Bảy), Chài Mường - trích Truyện đường rừng của Lan Khai, Cầu Chờ - trích Tiêu Sơn tráng sĩ của Khái Hưng.
Văn thuật sự thể đối thoại: Thách cưới - trích Thừa tự của Khái Hưng, Cho áo - trích Gió lạnh đầu mùacủa Thạch Lam. Đọc thêm: Lòng mẹ - trích Anh phải sống của Khái Hưng, Xử kiện - trích Trước vành móng ngựa của Hoàng Đạo, Lời trối - Thanh Tịnh, Làm mai - trích Nhơn tình ấm lạnh của Hồ Biểu Chánh, Thần đồng vấn Khổng Tử - Phan Kế Bính (dịch), Làm đèn trung thu - Nhật Tiến (Đèn tháng tám).  
Văn thuật sự thể tự thuật tâm sự: Tâm sự - Khổng Dương, Tâm trạng một người mắc bệnh lao - trích Hoa trinh nữ của Thẩm Thệ Hà. Đọc thêm: Tâm trạng một thanh niên mắc bệnh lao - trích Bướm trắng của Nhất Linh, Hạnh - trích Hạnh của Khái Hưng, Tâm sự của cái giường hư - trích Phấn thông vàng của Xuân Diệu, Một đứa bé mồ côi - trích Giông tố của Vũ Trọng Phụng.
Văn thuật sự thể hồi ký: Những ngày thơ ấu - trích Những vì sao lạc của Nhật Tiến, Giã từ trường cũ - trích Đơn sơ của Hường Hoa, Buổi học đầu tiên - trích tập Souvenirs của Ernest Lavisse. Đọc thêm; Ông tôi - trích Tiết tháo một thời của Toan Ánh, Sự học của tôi - B. Franklin, Một giấc mơ xuân - Hoàng Đạo (báo Ngày nay).
Văn thuật sự thể cảm tưởng: Nhặt lá bàng - trích Đôi bạn của Nhất Linh, Con đường sáng - trích Con đường sáng của Hoàng Đạo. Đọc thêm: Chuông vang - Đông Hồ, Trong thư viện - trích Con đường sáng của Hoàng Đạo, Ý thu - Anatole France, Đất mẹ - trích Đất mẹ của Thu Vân, Hoa - Okakura Kakuzo (Khái Hưng dịch), Con tàu (báo Ngày nay).
Văn nghị luận cổ điển: Bảy tình người ta - trích Lữ trung tạp thuyết của Bùi Huy Bích. Văn nghị luận của Phan Kế Bính: Luận về lý thú văn chương (Việt Hán văn khảo), Am chúng sinh (Việt Nam phong tục); Bài khảo sát: Nguyên lý văn chương - Phan Kế Bính (Việt Hán văn khảo), Lễ xướng danh trong khoa thi Hội về bản triều– Phan Kế Bính (Việt Nam phong tục). Văn nghị luận của Nguyễn Bá Học: Ở đời (Lời khuyên học trò), Mạo hiểm(Lời khuyên học trò); Bài khảo sát: Tự trọng, Hy vọng (đều trích từ Lời khuyên học trò). Văn nghị luận của Nguyễn Văn Vĩnh: Gì cũng cười (Xét tật mình), Nghề hát bội của ta và nghề diễn kịch của Châu Âu (Nghề diễn kịch bản Đại Pháp); Bài khảo sát: Phải xét tật mình (Xét tật mình), Con cá nhỏ và người đánh cá (Thơ ngụ ngôn của La Fontaine, Nguyễn Văn Vĩnh dịch).
Văn nghị luận mới: Luyện lấy bộ óc khoa học - Hoàng Đạo (Mười điều tâm niệm).
Giới thiệu tóm tắt về các tạp chí: Đông Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí, tạp chí Thanh Nghị, Tao Đàn tạp chí, tạp chí Tri Tân.
Phụ tuyển văn nghị luận: Văn chương (Phan Kế Bính), Nền luân lý cổ của dân tộc Việt Nam (Phạm Quỳnh), Chức trách các văn sĩ trong xã hội ta ngày nay (Tiếng gọi đàn - Dương Bá Trạc), Cái chứa trong bụng người (Khối tình - Tản Đà), Lối văn tả thực (Phê bình và khảo luận - Thiếu Sơn), Tình cảnh dân quê Việt Nam dưới chế độ thực dân (Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm), Thiên chức của văn sĩ Việt Nam (Lan Khai), Văn nhân(Thiều Quang), Nghĩa gia tộc (Phạm Quỳnh), Nghị lực (D.F. Frébault, Phạm Quỳnh dịch), Thanh niên đời xưa(Ứng Hoè Nguyễn Văn Tố), Nghĩa vụ của thanh niên (Nguyễn Khắc Hiếu)
Phần luận văn: Các luận đề thuộc loại văn thuật sự; Các luận đề thuộc loại văn nghị luận.
Văn đơn tín: Loại thư tín, loại đơn từ
2.4. Sách giáo khoa Giảng văn lớp 9, bài “Đại cương Văn học sử Việt Nam” giới thiệu văn học Việt Nam từ khởi thuỷ đến hiện đại qua cách phân kỳ như sau: Văn chương bình dân, Văn chương đời nhà Lý và đời nhà Trần, Văn chương đời nhà Lê và đời nhà Mạc, Văn chương đời nhà Lê trung hưng, Văn chương đời nhà Nguyễn, Văn chương hiện đại.   
Phần Cổ văn, sách giáo khoa đã chọn trích giảng các tác phẩm của các tác giả sau:
Nguyễn Công Trứ: Tiểu sử, thân thế, thời đại, con người. Giảng văn: Loại thơ tự vịnh (Đi thi tự vịnh; đọc thêm: Vịnh cành nghèo, Quân tử cố cùng, Hội gió mây, Thú điền viên, Thú ẩn dật, tự thuật); Loại thơ vịnh vật (Vịnh cây cau; đọc thêm: Vịnh cây thông, Vịnh cây vông, Vịnh trống đại cổ); Loại thơ chí nam nhi (Luận kẻ sĩ; đọc thêm: Chí nam nhi, Nợ tang bồng, Nợ công danh); Loại thơ nhân tình thế thái (Thế tình đen bạc; đọc thêm: Khuyên người đời, Trò chơi, Vinh nhục); Loại thơ hưởng nhàn (Cảm tưởng ngày tháng thanh nhàn; đọc thêm: Thoát vòng danh lợi, Hành tàng, Thú thanh nhàn). Tổng kết về Nguyễn Công Trứ. Bài khảo sát: Vịnh cảnh già, Vô cầu, Vịnh mùa đông, Chí làm trai, Cầm kỳ thi tửu.
Cao Bá Quát: Thân thế, sự nghiệp và con người. Giảng văn: Uống rượu tiêu sầu; đọc thêm: Tạm biệt, Đời người thấm thoát. Bài khảo sát: Cuộc phong trần, Đi sứ Tân Gia Ba, Ngán đời.
Nguyễn Khuyến: Thời đại, thân thế và sự nghiệp. Giảng văn: Loại thơ tả cảnh (Vào hè; đọc thêm: Cảnh mùa hè, Thu ẩm, Thu điếu, Thu vịnh); Loại thơ tả tình (Khóc Dương Khuê; đọc thêm thơ tả tình: Dựng nhà tế đường, Tạ lại người cho hoa trà, Mùa hạ); Loại thơ chống thực dân (Hội Tây; đọc thêm: Vịnh Lão Ngưu, Lời gái goá); Loại thơ trào phúng (Tự trào; đọc thêm: Tặng Hà Nam Tổng đốc, Tự đề, Hoả lò đun nước); Loại thơ yêu nước (Thị Mốc; đọc thêm: Cáo quan về ở nhà, Về nghỉ nhà, Thoại cựu diễn âm). Tổng kết về Nguyễn Khuyến. Bài khảo sát: Ngày xuân răn con cháu, Ông Nghè tháng tám, Bạn đến chơi nhà, Cảnh Tết, Cối xay. 
Trần Tế Xương: Thân thế, sự nghiệp và con người. Giảng văn: Loại thơ mỉa mai thân thế (Tự thán; đọc thêm; Than cùng, Thi hỏng); Loại thơ mỉa mai nhân thế (Thói đời; đọc thêm: Đùa ông Phủ, Mừng Nghị viên, Hỏi ông Tiến sĩ mới, Chế quan Đốc); Loại thơ mỉa cảnh mỉa đời (Tết đến; đọc thêm: Than đạo học, Đại hạn, Trời hôm, Vịnh lên đồng). Tổng kết về Trần Tế Xương. Bài khảo sát: Tự tự, Dại khôn, Đi thi, Mùa nực mặc áo bông, Lạc đường.
Tôn Thọ Tường: Tiểu sử. Giảng văn: Từ Thứ quy Tào. Đọc thêm: Tôn phu nhân quy Thục, Tự thuật, Thân thế nàng Kiều. Bài khảo sát: Vịnh chùa Cây Mai, Lai kinh thọ tội, Tự thuật.   
Phan văn Trị: Tiểu sử. Giảng văn: Hoạ bài Tôn phu nhân quy Thục. Đọc thêm: Tự thuật, Câu cá 2. Bài khảo sát: Cảm hoài, Câu cá 1, Tự thuật 5.
Cuộc bút chiến giữa nhóm Phan Văn Trị và Tôn Thọ Tường. Một bài truyền thị tỏ rõ thái độ Tôn Thọ Tường.
Phan Bội Châu: Thân thế, sự nghiệp và con người. Giảng văn: Nghĩa vụ đối với quốc gia, Bài thơ khẩu chiếm. Đọc thêm: Đồng hồ náo, Hồn gạch, Tiếng gọi đàn, Vào thành. Bài khảo sát: Khát nước, Tự tình, Tuyệt mệnh.
Phan Chu Trinh: Chí thành thông thánh, Bài thơ lưu giản. Đọc thêm: Côn Lôn tức cảnh, Cảm hoài, Bài khảo sát: Cây đèn sáp, Đập đá Côn Lôn, Cảnh ngục tù.
Văn thể: Hát nói.
Ngữ hoa, Từ hoa, Ý hoa.
Phần Kim văn, sách giáo khoa đã chọn trích giảng các bài học như sau:
Kiểu bài nghị luận phê bình.
Phạm Quỳnh: Tiểu sử. Trích giảng: Bàn về tiểu thuyết, Triết lý của đạo Phật (Phật giáo lược khảo). Bài khảo sát: Quốc hồn trong quốc văn (Thơ tây thơ ta), Nền luân lý cổ của dân tộc Việt Nam (Công cuộc chấn chỉnh quốc gia ở nước Pháp và khôi phục cổ điển ở nước Nam), Đạo hiếu và đạo trung trong luân lý của Khổng giáo (Công cuộc chấn chỉnh quốc gia ở nước Pháp và khôi phục cổ điển ở nước Nam). Đọc thêm văn nghị luận của Phạm Quỳnh: So sánh thế kỷ thứ XVII và thế kỷ thứ XVIII trong văn học sử nước Pháp (Bàn về văn minh học thuật nước Pháp), Triết học của đạo Khổng (Cái quan niệm người quân tử trong triết học đạo Khổng), Nghĩa vụ của nhà trí thức (Nghĩa vụ là gì?), Tính đôn đốc (Độc thư cứu quốc), Tâm lý của lối thơ Đường luật (Thơ tây thơ ta), Tâm lý cô Kiều (Truyện Kiều).
Trần Trọng Kim: Tiểu sử. Trích giảng: Vì sao phương Tây phú cường mà phương Đông suy nhược (Nho giáo), Luân lý của đạo giáo (Đạo giáo). Bài khảo sát: Giá trị Truyện Kiều, Khoa học và tâm học. Đọc thêm: Chính thống và nguỵ triều (Việt Nam sử lược), Cái hại của sự duy tân cấp tốc mù quáng (Nho giáo), Tôn chỉ luân lý của Khổng giáo (Nho giáo), Nghiệp báo ứng (Phật giáo), Sự tiến hoá của người nước Nam (Việt Nam sử lược), Tương lai Việt Nam (Việt Nam sử lược).
Phan Chu Trinh: Tiểu sử. Trích giảng: Luận về một chính sách khai hoá (Thư gởi chính phủ bảo hộ), Quốc gia luân lý (Đạo đức và luân lý Đông Tây). Bài khảo sát: Đạo đức và luân lý, So sánh chủ nghĩa quân trị và dân trị. Đọc thêm: Phan Chu trinh tuyên chiến với quân quyền (Thư thất điều), Tôn bậy quân quyền (Thư thất điều), Âm mưu chính trị (Thư thất điều), Quân chủ chuyên chế xuyên tạc đạo Nho (Quân trị chủ nghĩa và Dân trị chủ nghĩa), Xã hội luân lý (Đạo đức và luân lý Đông Tây), Dân trị chủ nghĩa (Quân trị chủ nghĩa và Dân trị chủ nghĩa).
Nghị luận trong các tạp chí văn chương, khoa học: Văn chương - Nguyễn Bá Học, Tự trọng - Nguyễn Bá Học, Công dụng của câu đối trong xã hội ta - Nguyễn Văn Ngọc, Tư tưởng Lão, Trang trong những bài hát nói(Đào nương ca) - Nguyễn văn Ngọc, Một phương thức xây dựng văn hoá - Phan Kế Bính, Luận về phong tục - Phan Kế Bính, Số mệnh - Dương Minh, Nghĩa xuất xử - Phan Quân, Biết khó làm dễ - Phan Quân, Bàn về nghị lực - Lương Khải Siêu (Trần Trọng Kim dịch), Khôn dại sống chết - Phan Sào Nam, Canh bạc và cuộc đời - Nguyễn Khắc Hiếu, Đức khiêm tốn của nhà văn - Hoa Bằng, Khoa học - Thu Giang, Học vấn và thực nghiệm - Phan Khôi, Thơ văn với thời đại - Chương Dân, Lối thơ khẩu khí Trần Thanh Mại (Trông dòng sông Vị), Sự thực với việc làm thơ - Chương Dân, Thơ ca có hại gì cho tâm hồn người ta không - Dương Quảng Hàm, Ảnh hưởng thơ ca đối với tâm hồn người ta - Dương Quảng Hàm, Bàn về Truyện Kiều (Chánh học cùng tà thuyết) - Ngô Đức Kế, Tâm lý nhân vật trong Đoạn trường tân thanh - Đinh Gia Trinh, Tâm lý nàng Kiều dưới ngòi bút Nguyễn Du - Đinh Gia Trinh, Tính kiêu ngạo của Cao Bá Quát - Trúc Khê Ngô Văn Triện, Điểm khởi hành của thơ tự do - Trần Thanh Hiệp.
Phần bài bổ túc (có câu hỏi gợi ý): Chịu khó - Nguyễn Bá Học, Khó dễ - T.N, Tài đức - Thu Giang, Bình đẳng - A.A.A, Tinh thần hy sinh - H.H.H., Người anh hùng - Đàn Việt, Quan niệm đạo đức mới - Hữu Tuyết, Nhân sinh quan - Nam Cường, Văn chương phê bình - NMT, Thế nào là nội dung và hình thức một tác phẩm văn chương - Hoài Thanh, Quốc học - Trần Thanh Hiệp.        
2.5. Sách giáo khoa Giảng văn lớp 10 đã chọn trích giảng các tác phẩm sau:
Phần Văn học sử: Văn chương truyền khẩu, Văn Nôm từ Hàn Thuyên đến Nguyễn Du, Giới thiệu những tác phẩm Hán văn do người Việt sáng tác tương ứng với các thời kỳ của nền văn Nôm.
Phần Văn thể: Đối, Câu đối, Phú (cổ thể, cận thể [Đường luật]), Văn tế.
Phần Trích giảng:
Ca dao: Bình giảng: Buồn trông, Làng ta. Đọc thêm: Cái cò, Cầu duyên, Công ơn cha mẹ, Thằng Bờm, Nụ tầm xuân, Cố chí canh nông, Việc làm ruộng, Bài hát đố, Trấn thủ lưu đồn, Tiếng hờn vong quốc, Phê bình nhân vật lịch sử, Chỉ trích quan liêu.
Thơ thời Hồng Đức: Hồng Đức quốc âm thi tập. Bình giảng: Lăng Mẫu tống sứ giả. Khảo sát: Thơ tứ thời(Ngô Chi Lan). Đọc thêm: Canh một, Xuân, Hạ thử, Tàn xuân lữ xá, Mẫu đơn, Vịnh chùa Non nước, Thần Phù, Bạch Đằng giang, Trưng Vương, Bà Triệu, Vịnh Hán Cao Tổ, Khổng Thánh.
Lê Thánh Tông: Thân thế và sự nghiệp. Bình giảng: Người bù nhìn. Khảo sát: Đề miếu vợ chàng Trương. Phê bình: Thơ khẩu khí (Phạm Văn Diêu); Thơ khẩu khí Lê Thánh Tông (Trần Thanh Mại). Đọc thêm: Qua Hoàng Giang điếu Vũ Nương, Vịnh làng Tam Chế, Hoa sen, Qua đèo Ngang, Cái chổi, Cái xe điếu, Dệt vải, Thằng mõ, Người ăn mày, Con chó đá.
Nguyễn Bỉnh Khiêm: Thân thế và văn nghiệp. Bình giảng: Cảnh nhàn. Khảo sát: Đợi thời. Phê bình: Học thuật và tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm (Thái Bạch). Đọc thêm: Vui cảnh nhàn, Mùa thu đi chơi thuyền, Nhẹ đường danh lợi, Xem thường công danh, Thu tiễn khách, Nhân tình thế thái, Thói đời, Dĩ hoà vi quý, Ngẫm cơ xuất xử, Vô đề, Thơ sấm ký.
Lê Quý Đôn: Thân thế và văn nghiệp. Bình giảng: Rắn đầu biếng học (thơ). Khảo sát: Mẹ khuyên con lúc về nhà chồng (Kinh nghĩa). Đọc thêm: Lấy chồng cho đáng tấm chồng (Văn sách), Gái quá thì (Phú).
Nguyễn Huy Lượng: Thân thế và văn nghiệp. Bình giảng: Vịnh phong cảnh Hồ Tây. Khảo sát: Tụng Tây Hồ phú (đoạn cuối). Đọc thêm: Tụng Tây Hồ phú (toàn bài).
Phạm Thái: Thân thế và văn nghiệp. Bình giảng: Khóc Trương Quỳnh Như. Khảo sát: Tự thuật. Đọc thêm: Người đánh bạc, Anh nghiện rượu, Tự trào, Đề tặng Quỳnh nương, Ngày xuân uống rượu, Gởi Quỳnh Như, Tình xuân, Chiến tụng Tây Hồ phú.
Đặng Đức Siêu: Thân thế và văn nghiệp. Bình giảng: Văn tế Võ Tánh và Ngô Tùng Châu.
Nguyễn văn Thành: Thân thế và văn nghiệp. Bình giảng: Tế trận vong tướng sĩ. Phê bình: Phê bình bài Tế tướng sĩ văn (Phạm Quỳnh).
Chinh phụ ngâm khúc: Thân thế và văn nghiệp Đặng Trần Côn. Thân thế và văn nghiệp Đoàn Thị Điểm. Hoàn cảnh cấu tạo Chinh phụ ngâm khúc. Bình giảng: Thời chinh chiến, Lúc tiễn đưa. Khảo sát: Trách chồng sai hẹn, Buồn chờ đợi. Phê bình: Bà Đoàn Thị Điểm đã dịch Chinh phụ ngâm khúc như thế nào? (Hà Như Chi). Đọc thêm: Nỗi ưu tư của người chinh phụ, Lòng sầu muộn, Viễn ảnh khải hoàn.
Cung oán ngâm khúc: Thân thế và văn nghiệp Nguyễn Gia Thiều. Hoàn cảnh cấu tạo Cung oán ngâm khúc. Bình giảng: Tài sắc cung phi khi còn là khuê nữ, Khái luận về cuộc đời khổ sở. Khảo sát: Lúc được nhà vua sủng ái, Khi bị nhà vua chán bỏ. Phê bình: Triết lý Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Hoa). Đọc thêm: Tâm sự cung phi khi bị thất sủng, Nỗi buồn cô đơn, Hy vọng cuối cùng.
Hoa tiên truyện: Thân thế và văn nghiệp Nguyễn Huy Tự. Tiểu sử người nhuận sắc: Nguyễn Thiện. Nguồn gốc và lược truyện Hoa tiên. Bình giảng: Lương Sinh và Dương Dao Tiên gặp nhau. Khảo sát: Lương Sinh từ biệt Dao Tiên, Cảnh sông nước lúc Dao Tiên lên kinh đô. Phê bình: Giá trị Hoa tiên. Đọc thêm: Lương Sinh về thăm vườn cũ, Lương Sinh và Dương Dao Tiên tái ngộ.
Đoạn trường tân thanh: Thân thế và văn nghiệp Nguyễn Du. Đặc điểm thời đại – Nguồn gốc – Các bài Tựa. Lược truyện Đoạn trường tân thanh. Bình giảng: Tài sắc Thuý Vân và Thuý Kiều, Kiều ở lầu Ngưng Bích, Những đoạn Kiều nhớ nhà, Đoạn mở đầu và đoạn kết thúc Đoạn trường tân thanh. Khảo sát: Kiều gặp Từ Hải, Kiều khuyên Từ Hải ra hàng, Kim Trọng trở lại vườn Thuý. Phê bình: Giá trị truyện Kiều (Trần Trọng Kim), Bàn về Truyện Kiều (Ngô Đức Kế), Phê bình Từ Hải (Nguyễn Bách Khoa). Thơ vịnh Kiều của các tác giả: Phạm Quý Thích, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Khắc Hiếu, Tôn Thọ Tường. Đọc thêm: Kiều trước mộ Đạm Tiên, Thuý Kiều gặp Kim Trọng, Kiều mộng thấy Đạm Tiên, Kiều nhờ Vân trả nghĩa Kim Trọng, Số phận Thuý Kiều, Kim Kiều tái hợp. 
2.6. Sách giáo khoa Giảng văn lớp 11, phần Văn học sử gồm: Văn chương chữ Hán, Văn chương chữ Nôm, Văn chương Quốc ngữ. Phần Văn thể: Thơ Đường luật, Hát nói, Thơ mới.
Trích giảng phần Cổ văn:
Nguyễn Công Trứ: Tiểu sử - Văn nghiệp - Ý kiến phê bình về Nguyễn Công Trứ. Bình giảng: Vịnh cảnh nghèo. Đọc thêm: Quân tử cố cùng, Hội gió mây, Thú điền viên. Bình giảng: Thú ẩn dật. Đọc thêm: Muộn thành đạt, Hàn Nho phong vị phú, Một vài Câu đối. Bình giảng: Chí làm trai, Chí nam nhi, Nợ nam nhi, Luận kẻ sĩ. Đọc thêm: Nợ tang bồng, Nợ công danh, Phận sự làm trai, Kiếp nhân sinh, Đường công danh, Đi thi tự vịnh, Tang bồng là nợ. Bình giảng: Cầm kỳ thi tửu, Nợ phong lưu. Đọc thêm: Chơi xuân kẻo hết xuân đi. Lược giảng: Nhàn.Đọc thêm: Thoát vòng danh lợi, Còn nhiều hưởng thụ, Hành tàng. Bình giảng: Thế thái nhân tình, Thế tình đối với người nghèo. Lược giảng: Thế tình đen bạc. Lược giảng: Cách ở đời. Đọc thêm: Vinh nhục.
Cao Bá Quát: Thời đại - Tiểu sử - Văn nghiệp - Ý kiến phê bình về Cao Bá Quát. Bình giảng: Cuộc phong trần. Đọc thêm: Trải khắp đường đời, Tài tử đa cùng phú. Bình giảng: Ngán đời, Đời người thấm thoát, Uống rượu tiêu sầu. Đọc thêm: Hội ngộ, Hoài nhân, Tạm biệt, Đề sau khúc Yên đài anh ngữ của quan Đô sát Bùi công, Giữa đường gặp người đói.
Nguyễn Đình Chiểu: Tiểu sử - Văn nghiệp - Ý kiến phê bình về Nguyễn Đình Chiểu. Giới thiệu Lục Vân Tiên; Trích giảng: Lời Tôn sư, Ác lai ác báo, Lời ông câu. Đọc thêm: Nguyệt Nga khóc Vân Tiên, Vân Tiên Tử Trực đua tài. Bình giảng: Tự thuật, Nước lụt. Bài khảo sát: Ai điếu Phan Thanh Giản. Trích giảng: Văn tế Trương Công Định. Bài khảo sát: Văn tế sĩ dân lục tỉnh (đoạn 2). Đọc thêm: Văn tế nghĩa sĩ Cần GiuộcVăn tế sĩ dân lục tỉnh (toàn bài).
Nguyễn Khuyến: Cuộc đời – Văn nghiệp – Ý kiến phê bình về Nguyễn Khuyến. Bình giảng: Đồng tiền hoẻn, Tự trào. Bài khảo sát: Kẻ trộm mất trộm, Hội Tây, Cảnh Tết, Ông phỗng đá. Đọc thêm: Ông Nghè tháng tám, Châu chấu đá voi, Cách giả điếc, Chợt hứng. Bình giảng: Khóc Dương Khuê. Bài khảo sát: Vườn Bùi chốn cũ, Mừng con làm nhà. Đọc thêm: Gửi bác Châu Cầu, Trường thành hoài cổ. Bình giảng: Cảnh mùa hè. Đọc thêm: Chơi núi An Lão, Thu vịnh. Bình giảng: Thị Mốc. Bài khảo sát: Tiệc hát, Cối xay, Cuốc kêu cảm hứng. Đọc thêm: Đêm mùa hạ, Ngày xuân răn con cháu.
Trần Tế Xương: Tiểu sử - Văn nghiệp – Ý kiến phê bình Trần Tế Xương. Bình giảng: Quan tại gia, Than thân, Mùa nực mặc áo bông, Tết đến. Đọc thêm: Than cùng, Than nghèo, Ốm và đau mắt. Bình giảng: Đi thi. Đọc thêm: Hỏng thi 1, Hỏng thi 2, Hỏng thi 3, Phú hỏng thi. Bình giảng: Cái thú cô đầu. Đọc thêm: Hỏi ông Trời, Mất tiền, Khó chừa đàn bà, Tài ngón chầu, Tự trào. Bình giảng: Lạc đường, Đêm buồn. Đọc thêm: Dại khôn, Chúc Tết. Bình giảng: Gởi ông Thủ khoa Huân. Đọc thêm: Nhớ bạn. Bình giảng: Gởi ông Cò. Đọc thêm: Mừng Nghị viên, Phường tuồng, Cô Tây đi tu, Vay tiền không được, Lắm quan, Giễu ông Đốc, Đùa ông Phủ. Bình giảng: Than đạo học. Đọc thêm: Than sự thi, Ông Cử Nhu, Khoa thi cảm tác, Đổi thi, Tiễn người đi thi, Giễu người đi thi, Hỏi ông Tiến sĩ mới. Bình giảng: Xuân nhật ngẫu hứng. Đọc thêm: Chúc Tết, Lên đồng, Than nền đạo lý.
Dương Khuê: Tiểu sử. Bình giảng: May rủi. Bài khảo sát: Ai ơi! Má đỏ. Đọc thêm: Chơi hát ngẫu hứng, Nói hớt. Bình giảng: Động Hương Tích. Bài khảo sát: Hỏi thăm bạn ở Hưng Hoá. Đọc thêm: Nợ phong lưu, Chơi trăng.
Chu Mạnh Trinh: Tiểu sử - Phê bình về Chu Mạnh Trinh. Bình giảng: Hương Sơn phong cảnh ca. Bài khảo sát: Hương sơn nhật trình ca, Vịnh Truyện Kiều (hồi thứ nhât), Tổng vịnh Truyện Kiều.
Cao Bá Nhạ: Tiểu sử - Tóm lược Tự tình khúc. Trích giảng: Tình nhà. Bài khảo sát: Lúc bị bắt. Đọc thêm:Hoa với người.
Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu: Tiểu sử - Phê bình về Tản Đà. Bình giảng: Tống biệt. Bài khảo sát: Thơ rượu, Gió thu, Thề non nước. Đọc thêm: Thông giang cảm tưởng, Ngày xuân thơ rượu. Bình giảng: Sự nghèo. Bài khảo sát: Kiếp con quay, Thơ thẩn. Đọc thêm: Tự trào, Sự đời. Bình giảng: Thơ đề, Hoa rụng. Đọc thêm: Cảm thu tiễn thu, Tân xuân cảm. Bình giảng: Tinh thần yêu nước. Bài khảo sát: Con cuốc và con chẫu chuộc. Đọc thêm: Tháng ba không mưa, Vịnh bức dư đồ rách.
Phần Kim văn, sách giáo khoa đã chọn trích giảng các tác phẩm sau:
Nguyễn Văn Vĩnh và Đông Dương tạp chí: Tiểu sử - Giới thiệu tạp chí - Phê bình về Nguyễn Văn Vĩnh và Phan Kế Bính. Bình giảng: Tính ỷ lại. Bài khảo sát: Nhận xét tật mình, Nết người lớn. Đọc thêm: Thần chết và lão tiều phu, Con quạ với con chồn, Con cá nhỏ và người đánh cá, Gì cũng cười, Nghề hát bội ở nước ta, Phép xử thế của người phụ nữ.
Phan Kế Bính: Tiểu sử. Bình giảng: Nguyên lý văn chương, Lý thú của văn chương, Tục ăn Tết, Thương người đã mất. Đọc thêm: Quan niệm sai lầm, Thầy trò ngày xưa, Cái hay của văn chương. Lễ xướng danh trong khoa thi Hội về bản triều, Bài ghi trên chỗ ngồi (PKB dịch)
Nhóm Nam Phong tạp chí: Giới thiệu Nam Phong tạp chí. Phạm Quỳnh: Tiểu sử - Văn nghiệp - Ý kiến phê bình về Phạm Quỳnh. Bình giảng: Hai con đường, Nền luân lý cổ của dân tộc Việt Nam, Tịch mịch. Đọc thêm: Nghĩa vụ là gì?, Danh dự văn minh là gì?, Luận về lòng tín ngưỡng, Văn thuyết, Văn chương Truyện Kiều. Bình giảng: Giá trị Truyện Kiều. Đọc thêm: Tâm lý nhân vật trong tiểu thuyết, Mỹ thuật là gì?, Thơ là gì?, Nội dung ca dao, Tứ môn xuất du, Triết lý Phật giáo. Bình giảng: Tính cách thực dụng của đạo Khổng.
Nguyễn Trọng Thuật: Tiểu sử. Trích giảng: Tinh thần ái quốc của người Việt Nam. Đọc thêm: Cần kiệm, Thần sông với thần bể, Con trai với con cò, Bình minh ngoài biển khơi.
Nhóm Tự Lưc văn đoàn: Giới thiệu Tự Lực văn đoàn.
Nhất Linh: Tiểu sử - Phê bình về Nhất Linh. Tóm lược Đoạn tuyệt. Trích giảng: Buổi chiều cuối năm, Xung đột cũ mới. Đọc thêm: Thoát ly gia đình, Trên sông Đà.
Khái Hưng: Tiểu sử - Phê bình về Khái Hưng. Tóm lược Nửa chừng xuân. Trích giảng: Cảnh bên đường. Bài khảo sát: Đối thoại giữa bà Án và cô Mai, Vị tha. Đọc thêm: Lời cuối cùng, Tấm lòng cô Mai.
Hoàng Đạo: Tiểu sử - Phê bình về Hoàng Đạo. Tóm lược Mười điều tâm niệm. Trích giảng: Văn hoá Đông Tây. Bài khảo sát: Luyện tính khí. Đọc thêm: Luyện lấy bộ óc khoa học, Tin ở sự tiến bộ, Làm việc có phương pháp.
3. Nhận xét chung
3.1. Có thể thấy chương trình khung môn Văn được sắp xếp có hệ thống chặt chẽ, khoa học, hợp lý, theo trình tự từ dễ đến khó, từ các bài trích giảng đến các bài giới thiệu văn thể, cho đến các kiểu bài làm văn. Phần văn học sử được học có hệ thống, nếu ở lớp 9 học “Đại cương văn học sử Việt Nam từ khởi thuỷ đến hiện kim”, thì sang lớp 10 học sâu hơn, kiến thức được nâng cao hơn: “Văn chương truyền khẩu (Văn chương bình dân)”“Văn chương chữ Nôm từ đầu nhà Trần (Hàn Thuyên) đến Nguyễn Du”“Giới thiệu thơ chữ Hán và truyện cổ tích”, để đến lớp 11 sẽ học tiếp giai đoạn còn lại “Văn học Việt Nam từ sau Nguyễn Du đến 1945: văn học chữ Nôm và văn học chữ Quốc ngữ”. Phần văn thể cũng được học một cách bài bản, có hệ thống về các thể loại: tục ngữ, ca dao, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười, câu đố, thơ lục bát và biến thể, thơ song thất lục bát và biến thể, câu đối, phú, văn tế, hát nói, thơ Mới. Riêng hai thể loại ngâm khúc và truyện thơ Nôm tuy chương trình không có bài học riêng ở phần văn thể nhưng lại được giới thiệu về thể loại ở bài học về thơ lục bát, thơ song thất lục bát và ở bài trích giảng về tác phẩm Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm, Hoa tiên, Đoạn trường tân thanh, Lục Vân Tiên.
3.2. Bài giảng văn quy định chương trình và sách giáo khoa dù được biên soạn theo loại thể - kiểu bài (chủ yếu là ở trung học đệ nhất cấp) nhưng vẫn đảm bảo theo tiến trình phát triển lịch sử văn học. Để sau đó, học sinh sẽ được học nâng cao về văn học sử Việt Nam qua các bài học trọng tâm ở lớp 9, lớp 10 và 11.
3.3. Qua các văn bản trích giảng, khi biên soạn sách giáo khoa, các soạn giả đã có ý thức tích hợp giữa văn học (giảng văn) với làm văn (qua các kiểu bài luận [làm văn]) và ngôn ngữ (qua việc chú thích giải nghĩa các từ cổ, từ Hán Việt trong các văn bản được trích giảng, bài học về các biện pháp tu từ: Ngữ hoa, Từ hoa, Ý hoa).
Đây là một đóng góp không nhỏ của các nhà soạn sách, mà việc biên soạn sách giáo khoa theo phương pháp tích hợp có tính hiện đại và khoa học này gần đây, từ năm 2000 Bộ Giáo dục và Đào tạo mới có chủ trương, như thế là chương trình Ngữ văn hiện nay đã đi chậm khoảng gần nửa thế kỷ nếu so với chương trình môn Văn của miền Nam trước đây!
3.4. Các bài giảng văn đã kết hợp giữa thể loại (Kiểu văn bản) với tiến trình lịch sử văn học, có sự tích hợp giảng văn với làm văn (luận văn) xuyên suốt các lớp học trong toàn hai cấp. Những tác giả, tác phẩm được học kỹ trong chương trình thì đó thường là những trọng tâm trọng điểm để ra đề thi Trung học đệ nhất cấp và thi Tú tài bán phần.
3.5. Như trên đã nêu, ở đây xin được nói lại để nhấn mạnh là trong chương trình môn Văn mỗi tháng có 2 giờ thuyết trình các tác phẩm văn học hiện đại hay đương đại. Có thể nói đây là những giờ học đầy hứng thú của cả lớp.
3.6. Từ chương trình khung, các soạn giả căn cứ vào chương trình khung mà biên soạn nhiều bộ sách giáo khoa cho mỗi môn học, các thầy cô giáo căn cứ vào chương trình khung và sách giáo khoa mà soạn giảng. Cần lưu ý là, các bộ sách giáo khoa chỉ thống nhất chương trình khung, tức thống nhất về tác gia, tác phẩm, chứ không thống nhất về các đoạn trích giảng, khảo sát, đọc thêm, nhưng toàn miền Nam trước năm 1975 đều thống nhất thi chung một đề thi cho mỗi môn học trong các kỳ thi: Trung học Đệ nhất cấp, Tú tài bán phần, Tú tài toàn phần, trong đó môn Văn chỉ thi trong kỳ thi Trung học Đệ nhất cấp và Tú tài bán phần, mà hồi ấy, tôi chưa thấy có phụ huynh hay học sinh nào phàn nàn về chương trình về sách giáo khoa là quá tải hay bất cập. Nếu tôi nhớ không nhầm thì cứ khoảng ba đến dăm năm, Bộ Giáo dục có ra chỉ thị hay sắc lệnh, nghị định về cập nhật hoá chương trình, các soạn giả căn cứ vào đó mà biên soạn bổ sung, cập nhật, chứ không cần phải thay đổi toàn bộ sách giáo khoa (bản thân tôi là người trong cuộc, từng học và thi theo chương trình trên trước ngày giải phóng).  
4. Đề xuất
4.1. Khi biên soạn chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn mới, đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo, Viện Khoa học Giáo dục, nên tham khảo và học tập cách biên soạn chương trình và sách giáo khoa các nước tiên tiến. Từ đó, định hướng chương trình khung và việc biên soạn sách giáo khoa sao cho khoa học và hiện đại. Riêng môn Ngữ văn chương trình khung và sách giáo khoa cần phải thể hiện vừa theo kiểu văn bản (thể loại), vừa theo tiến trình phát triển của lịch sử văn học.
4.2. Thiết nghĩ, Bộ và Viện Khoa học Giáo dục chỉ định hướng nội dung chương trình khung cho mỗi môn học ở từng lớp. Việc biên soạn sách giáo khoa các môn học, Bộ nên để cho đội ngũ thầy cô giáo trực tiếp giảng dạy đảm nhận, Bộ với tư cách là cơ quan chủ quản chỉ quản lý và định hướng chứ không nên ôm cả biên soạn sách như từ trước đến nay. Cùng một chương trình khung, nên có nhiều bộ sách giáo khoa để cho thầy và trò lựa chọn. Dĩ nhiên, những bộ sách giáo khoa này cần phải được Hội đồng kiểm định chất lượng chuyên môn do Bộ thành lập với sự tán thành và thống nhất cao, sau đó mới xuất bản, sử dụng. 
4.3. Cách đây bốn năm, tôi có dịp đọc kỹ sách giáo khoa môn Văn trung học của bang California - Hoa Kỳ, tôi thấy các soạn giả của bộ sách này biên soạn rất hiện đại, tất cả các kiến thức giảng văn, ngôn ngữ và làm văn, kể cả lý thuyết (lý luận) văn học, văn học sử đều được tích hợp trong một văn bản. Có văn bản chọn giảng trong sách giáo khoa được biên soạn từ năm 1958, hiện vẫn còn dùng, có sự bổ sung câu hỏi qua các năm, mà việc bổ sung định hướng này đều được sách ghi chú cụ thể. Có lẽ chúng ta cần nên tham khảo bộ sách giáo khoa môn Văn này của bang California đề nghĩ suy về phương pháp, cách thức khi biên soạn sách giáo khoa mới.
4.4. Các bộ sách giáo khoa Văn ở miền Nam trước đây như bộ của soạn giả Đỗ Văn Tú hay bộ của Thẩm Thệ Hà là những bộ được biên soạn theo phương pháp hiện đại, tích hợp, vừa theo thể loại lại vừa theo tiến trình lịch sử. Nên chăng, các soạn giả khi biên soạn sách giáo khoa Ngữ văn mới cần phải tham khảo thêm những bộ sách giáo khoa này.
Tp. HCM, 02-12-2012


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sắc lệnh số 660/TT/SL ngày 01-12-1969 về Chương trình Cập nhật hoá của Bộ Quốc gia Giáo dục.
2. Nghị định số 1152A GD/KHPC/ND ngày 26-6-1970 về Chương trình Cập nhật hoá của Bộ Quốc gia Giáo dục.
3. Thẩm Thệ Hà, Giảng văn lớp 6; Giảng văn lớp 7, Sống Mới xuất bản, SG, 1974.
4. Xuân Tước - Thẩm Thệ Hà, Giảng văn lớp 8; Giảng văn lớp 9, Sống Mới xuất bản, SG, 1974.
5. Xuân Tước - Thẩm Thệ Hà - Bằng Giang, Giảng văn lớp 10; Giảng văn lớp 10, Sống Mới xuất bản, SG, 1974.
6. Đỗ Văn Tú, Giảng văn lớp 6; Giảng văn lớp 7; Giảng văn lớp 8; Giảng văn lớp 9; Giảng văn lớp Đệ tam;Giảng văn lớp Đệ nhị, Văn Hào xuất bản, SG, 1970.
7. Võ Thu Tịnh, Việt văn, Đệ nhị A B C D, 2 tập, in lần thứ 3, Hải Vân xuất bản, 1965.
8. Tạ Ký, Việt Nam thi văn trích giảng, Nxb Khoa học, SG, 1961.
9.  Vũ Ký, Luận văn chương và giải đề thi Tú tài 1 A B C D, Trí Đăng xuất bản, SG, 1972.
10. Phạm Thế Ngũ, Bài Việt văn kỳ thi Tú tài – Bài luận văn chương, 3 tập, Phạm Thế xuất bản – Quốc học tùng thư, SG, 1970.
Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc gia Dạy học Ngữ văn ở trường Phổ thông Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức tại Huế ngày 5 và 6 tháng 1 năm 2013. Nxb ĐHSP HN, 2013, trang 335-356.


[1] Chỗ này trong chương trình khung của Bộ Quốc gia Giáo dục và các sách giáo khoa, các công trình nghiên cứu ở miền Nam trước 1975 đã nhầm khi khẳng định Nguyễn Trãi là tác giả của Gia huấn ca. Bởi khi biên soạn tất cả các soạn giả đều dựa vào bộ sách Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm. Ở miền Bắc, khoảng đầu thập niên 60 của thế kỷ trước, nhà nghiên cứu Bùi Văn Nguyên đã phát hiện tác giả của Gia huấn ca là Tiên Điền Nguyễn tướng công (tức Tiến sĩ Nguyễn Huệ, anh ruột của Tiến sĩ Tể tướng Nguyễn Nghiễm), ông là bác ruột của thi hào Nguyễn Du.

[2] Các bài thơ trong tập thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm: Bạch Vân quốc ngữ thi tập vốn không có đầu đề. Những đầu đề này là do người biên soạn sách giáo khoa dựa vào nội dung từng bài mà đặt ra.

Nguồn: http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=4891%3Achng-trinh-va-sach-giao-khoa-mon-vn-bc-trung-hc-min-nam-trc-nm-1975&catid=115%3Agiao-dc&Itemid=189&lang=vi