Đã hơn 30 năm không một ai hỏi tôi
về ca dao tục ngữ, một nền văn học bình dân truyền khẩu của dân tộc ta ra đời
trước nền văn chương bác học; bổng dưng vào tháng 11 năm 2009, một giáo chức ở
huyện Đất đỏ, tỉnh Bà rịa-Vũng tàu, cũng là cựu học sinh trường Trung Học Công
lập Đất đỏ gọi điện cho tôi và xin giảng nghĩa
từ “cầu kiều” trong hai câu ca dao:
Muốn sang thì
bắt cầu kiều
Muốn cho hay chữ phải yêu kính thầy
1. Đây là hai câu ca dao mà các nhà
giáo và học sinh luôn luôn được nghe phụ huynh nhắc nhở.
Theo lễ giáo ngày xưa “tôn sư trọng
đạo” là 1 trong những điều mà xã hội ép buộc phải tuân theo . Phần lớn dân ta
thất học cho nên văn học “bình dân truyền khẩu” là khí giới bén nhạy để giáo dục
nhân dân; do đó, hai câu ca dao trên được quảng bá để giáo dục hậu sinh, bảo trì
lễ giáo theo truyền thống “quân sư phụ”.
Kiều 喬 là cao và cong
Ngày xưa các nhà quyền thế và quí phái đều có thuỷ tạ . Cây cầu để bắt
qua các thuỷ tạ đều xây theo kiểu hình cong và cao cho nó đẹp và biểu lộ sự
sang trọng:
Muốn sang thì bắt cầu kiều
Có
người cho rằng cầu Kiều lấy từ điển tích trong thời Tam Quốc (220-264) . Tào Tháo
ra lịnh xây đài trên bờ sông Chương ở quận Nghiệp (nay thuộc huyện Lâm
Chương, tỉnh Hà Nam )
để dưỡng tuổi già. Trong lúc đào móng, thợ bắt gặp một con chim sẻ bằng đồng
nên Tào Tháo đặt tên đài là “Đồng Tước 銅雀”.
Đồng Tước gồm một đài chính và 2 đài phụ ở phía tây và phía đông gọi là Ngọc
Long 玉龍
và Kim Phượng 金鳳.
Đài chính và 2 đài phụ được nối với nhau bằng 2 cây cầu vòng rất nguy nga tráng
lệ. Con trai TàoTháo là Tào Thực ( một thi tài lỗi lạc trong nhóm “Kiến An thất
tử” thời đó) làm một bài phú để ca ngợi vẻ đẹp của đài này. Tào Thực làm bài
“Đồng Tước đài phú”, trong đó có câu:
“Liên nhị kiều ư đông tây hề, nhược
trường không chi đế đông.”[1]
連二橋於東西兮,若長空之蝃蝀。
Nghĩa là bắt 2 cây cầu nối từ đông
sang tây, như cầu vòng ở trời cao
Tóm lại câu lục để mở đầu và câu
bát nói lên sự tôn sư trọng đạo
2. Thực ra không ai có thể khẳng định về ý
nghĩa thực sự của người làm ra 2 câu ca dao đó . Phần lớn sinh viên Đại Học Sư Phạm
dùng tự diển Hán Việt của nhà sư Thiều Chửu làm tài liệu tham khảo chính.
Kiều 橋 là cây cầu
cong và cao (Tự điển Thiều Chửu và Nguyễn quốc Hùng) là danh từ không phù họp với lối cấu trúc của
câu thơ vì phải đọc "muốn sang thì phải bắt cầu
cầu cong và cao (kiều)" cho nên chữ kiều là danh từ không thể bổ túc
cho chữ cầu là danh từ đứng trước.
Chữ Kiều 喬 là tính từ, nghĩa là
cao mà cong (Tự điển Thiều Chửu, tự điển Nguyền quốc Hùng và tự điển của Bửu
Kế).
Chữ kiều 喬 nghĩa là cao mà cong là tiếng tính từ, nó bổ
túc cho danh từ cầu và đọc “muốn sang thì phải bắt cây cầu cao”. Ngoài ra nó cũng
phù hợp với điển tích Tào Tháo xây cầu.
Kinh
Thi có câu : Xuất tự u cốc, thiên vu kiều mộc 出自幽谷, 遷于喬木 (Từ hang tối ra, chuyển lên
cây cao.) Ý nói chim nó còn biết chọn chỗ cao, huống chi người. Nay dùng hai chữ
kiều thiên 喬遷 để tỏ ý lên chốn cao thượng
sáng láng.
Trần-Lâm Phát
Tử Vi Lang dịch bài phú đài Đồng Tước:
Phú đài Đồng Tước
Noi đức sáng thánh quân rực
rỡ,
Lên lầu đài hớn hở lòng xuân. Xem công Thái Thú chăn dân, Đức cao vời đã thấm nhuần nơi nơi. Dựng lên giữa lừng trời xanh ngắt, Đài nguy nga bát ngát không trung. Mỹ quan nào kém non Bồng, Gác cao, tây vực nhìn thông nẻo đoài. Dòng Chương Thuỷ chảy dài trong suốt, Tưới nhuần vườn cây tốt quả tươi... Hai bên tả hữu hai đài: Ngọc Long, Kim Phượng sáng ngời ánh dương. Bắc hai cầu tây đông nối lại Như cầu vồng sáng chói không gian. Ngồi cao nhìn xuống cõi trần, Đế đô mây ráng xoay vần nổi trôi... Mừng rỡ thấy anh tài qui tụ, Ứng mộng hùng chuyện cũ Văn Vương. Gió xuân đầm ấm đưa hương, Muôn chim đua hót du dương hài hoà. |
Cao đẹp tựa trời mây muôn
thủa,
Phúc nhà may chất chứa dài lâu.
Khắp cùng vũ trụ nhiệm mầu,
Đề cao nhân hoá, kính chầu thượng kinh. Noi Tề, Tấn nghĩ mình hưng thịnh, Phò thánh minh cùng sánh công lao. Xinh tươi bền vững biết bao! Ơn sâu nước ngấm, đức cao xa đồn. Phò tá đấng Chí Tôn gìn giữ Xây thái bình thịnh trị bốn phương. Phép trời khuôn đất đo lường. Ánh trăng cùng với ánh dương điều hoà. Tôn quý ấy truyền xa mãi mãi, Thọ vô cùng, thọ với chúa Xuân! Ngự long kỳ buổi an nhàn, Hoặc khi vội vã, xe loan trở về. Ơn giáo hoá tràn trề bốn biển Vui mầng thay vật kiện dân khang! Đài nầy đứng mãi hiên ngang, Điểm tô kim cổ, son vàng thắm tươi...
Tử Vi Lang
|
Bài chữ Hán Đồng Tước đài phú 銅雀台賦 sau đây được
lưu truyền rộng rãi, đăng trong web site: http://zh.wikipedia.org/wiki/%E9%8A%85%E9%9B%80%E8%87%BA%E8%B3%A6
銅雀台賦
|
Đồng
Tước Đài Phú
|
從明后以嬉遊兮,
登層臺以娛情。
|
Tòng minh hậu dĩ hi du hề,
đăng tằng đài dĩ ngu tình.
|
見太府之廣開兮,
觀聖德之所營。
|
Kiến Thái phủ chi quảng khai hề,
quan thánh đức chi sở doanh.
|
建高門之嵯峨兮,
浮雙闕乎太清。
|
Kiến cao môn chi tha nga hề,
phù song khuyết hồ Thái Thanh.
|
立中天之華觀兮,
連飛閣乎西城。
|
Lập trung thiên
chi hoa quan hề,
liên phi các hồ Tây thành.
|
臨漳水之長流兮,
望園果之滋榮。
|
Lâm chương thủy
chi trường lưu hề,
vọng viên quả chi tư vinh.
|
立雙臺於左右兮,
有玉龍與金鳳。
|
Lập song đài ư tả hữu hề,
hữu Ngọc Long dữ Kim Phượng.
|
連二橋於東西兮,
若長空之蝃蝀。
|
Liên
nhị kiều ư đông tây hề,
nhược trường không chi
đế
đông.
|
俯皇都之宏麗兮,
瞰雲霞之浮動。
|
Phủ hoàng đô chi hoành lệ hề,
khám vân hà chi phù động.
|
欣群才之來萃兮,
協飛熊之吉夢。
|
Hân quần tài
chi lai tụy hề,
hiệp phi hùng chi
cát mộng.
|
仰春風之和穆兮,
聽百鳥之悲鳴。
|
Ngưỡng
xuân phong chi hòa mục hề,
thính bách điểu chi bi minh.
|
雲天亙其既立兮,
家願得乎雙逞。
|
Vân thiên cắng kỳ ký
lập hề,
gia nguyện đắc hồ song sính.
|
揚仁化於宇宙兮,
盡肅恭於上京。
|
Dương
nhân hóa ư vũ trụ hề,
tận túc
cung ư thượng kinh.
|
惟桓文之為盛兮,
豈足方乎聖明?
|
Duy hoàn văn chi vi thịnh hề,
khởi túc
phương hồ thánh minh?
|
休矣美矣!
惠澤遠揚。
|
Hưu hĩ mỹ hĩ!
huệ trạch viễn dương.
|
翼佐我皇家兮,
寧彼四方。
|
Dực tá ngã
hoàng gia hề,
ninh bỉ tứ phương.
|
同天地之規量兮,
齊日月之輝光。
|
Đồng thiên địa chi quy lượng hề,
tề nhật nguyệt chi huy quang.
|
永貴尊而無極兮,
等君壽於東皇。
|
Vĩnh quý tôn nhi vô cực hề,
đẳng quân thọ ư đông hoàng.
|
御龍旂以遨遊兮,
迴鸞駕而周章。
|
Ngự long kỳ dĩ ngao du hề,
hồi loan giá nhi chu chương.
|
恩化及乎四海兮,
嘉物阜而民康。
|
Ân hóa cập hồ tứ
hải hề,
gia vật phụ nhi dân khang.
|
願斯臺之永固兮,
樂終古而未央!
|
Nguyện tư
đài chi vĩnh cố hề,
nhạc chung cổ nhi vị ương!
|
Bài chữ Hán sau đây trích
từ Tam quốc diễn nghĩa, quyển 44:
銅雀台賦
|
Đồng
Tước Đài Phú
|
從明後而嬉游兮,
登層臺以娛情。
|
Tòng minh hậu nhi
hy du hề,
đăng tằng
đài dĩ ngu tình.
|
見太府之廣開兮,
觀聖德之所營。
|
Kiến Thái
phủ chi quảng khai hề,
quan Thánh đức chi sở doanh.
|
建高門之嵯峨兮,
浮雙闕乎太清。
|
Kiến cao
môn chi tha nga hề,
phù song khuyết hồ Thái thanh.
|
立中天之華觀兮,
連飛閣乎西城。
|
Lập trung thiên
chi hoa quan hề,
liên phi các hồ Tây thành.
|
臨漳水之長流兮,
望園果之滋榮。
|
Lâm Chương
thủy chi trường lưu hề,
vọng viên quả chi tư vinh.
|
立雙臺於左右兮,
有玉龍與金鳳。
|
Lập song
đài ư tả hữu hề,
hữu Ngọc Long dữ Kim Phượng.
|
攬二喬於東南兮,
樂朝夕之與共。
|
Lãm nhị kiều ư đông nam hề,
nhạc triêu tịch chi dữ cộng.
|
俯皇都之宏麗兮,
瞰雲霞之浮動。
|
Phủ hoàng
đô chi hoành lệ hề,
khám vân hà chi phù động.
|
欣群才之來萃兮,
協飛熊之吉夢。
|
Hân quần
tài chi lai tụy hề,
hiệp phi hùng chi cát mộng.
|
仰春風之和穆兮,
聽百鳥之悲鳴。
|
Ngưỡng
xuân phong chi hòa mục hề,
thính bách điểu chi bi minh.
|
雲天亙其既立兮,
家願得乎雙逞。
|
Vân thiên cắng kỳ ký
lập hề,
gia nguyện đắc hồ song
sính
|
揚仁化於宇宙兮,
盡肅恭於上京。
|
Dương
nhân hóa ư vũ trụ hề,
tận túc cung ư thượng kinh.
|
惟桓文之為盛兮,
豈足方乎聖明!
|
Duy
hoàn văn chi vi thịnh hề,
khởi túc phương hồ thánh minh!
|
休矣!美矣!
惠澤遠揚。
|
Hưu hĩ ! mỹ hĩ !
huệ trạch viễn dương.
|
翼佐我皇家兮,
寧彼四方。
|
Dực tá ngã
hoàng gia hề,
ninh bỉ tứ phương.
|
同天地之規量兮,
齊日月之暉光。
|
Đồng thiên
địa chi quy lượng hề,
tề nhật nguyệt chi huy quang
|
永貴尊而無極兮,
等年壽於東皇。
|
Vĩnh quý
tôn nhi vô cực hề,
đẳng niên thọ ư đông hoàng.
|
御龍旂以遨遊兮,
迴鸞駕而周章。
|
Ngự long kỳ
dĩ ngao du hề,
hồi loan giá nhi chu chương.
|
恩化及乎四海兮,
嘉物阜而民康。
|
Ân hóa cập hồ tứ
hải hề,
gia vật
phụ nhi dân khang.
|
願斯臺之永固兮,
樂終古而未央!
|
Nguyện tư
đài chi vĩnh cố hề,
lạc chung cổ nhi vị ương!
|