Đọc
thơ Lý Thừa Nghiệp
Anh là một nhà thơ độc đáo, làm thơ y hệt như người
hát Kinh Phật. Không phải một hình thức đọc tụng Kinh Phật như đời thường. Thơ
Lý Thừa Nghiệp không đời thường, tuy vẫn nói về Sóc Trăng quê ngoại, nói về mẹ,
nói về em, nói về Melbourne với Cù Lao Dung… nhưng tất cả hình ảnh đời thường
hiện lên trong thơ anh đều nhắc tới những pháp ấn, rằng tất cả các pháp là bất
như ý, là vô thường, là không gì nắm bắt
được. Thơ Lý Thừa Nghiiệp là một thân chứng về cõi đời này, trong niềm vui đã ẩn
tàng nước mắt, trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt, trong những tình cờ gặp gỡ vừa
khởi lên đã thấy những rỗng lặng trống không của tâm hiện ra.
Đó là những bài thơ hiếm gặp trên đời này. Đó là thơ
Lý Thừa Nghiệp. Đó là những dòng chữ làm chúng ta giựt mình ngay tức khắc. Như
dường chữ nhảy ra khỏi trang giấy. Nhiều bài thơ của anh có sức mạnh làm tôi sững
sờ, ngồi yên lặng lẽ, và dõi mắt nhìn cho tới dòng cuối bài thơ.
Thí dụ, trong bài Nghe Kinh trong thi tập “Về Nghe Bát
Nhã Ca” của Lý Thừa Nghiệp, trích:
Sáng nghe một bài kinh
Ngũ uẩn bỗng cựa mình
Nhang thắp hồng sám hối
Bụi tàn bay lung linh.
Làm sao có thể có những dòng thơ dị thường như thế?
Kinh nghe buổi sáng có cả triệu triệu người từng nghe. Khi thi sĩ viết “ngũ uẩn
bỗng cựa mình,” chúng ta có cảm giác như trang kinh oằn xuống với cả biển khổ của
trần gian. Ngũ uẩn là một khái niệm trừu tượng, là năm nhóm hình thành thân tâm
chúng ta - sắc thọ tưởng hành thức - vậy mà, từ khái niệm trừu tượng trở thành
cái gì rất cụ thể, để “cựa mình” và để làm hồng lên nén nhang sám hối. Dòng thơ
như len vào làn da được, hệt như làn gió ban mai bên cửa sổ.
Thơ Lý Thừa Nghiệp cũng phần lớn mang giáo lý nhà Phật,
có khi nêu ra những câu hỏi rất mực gian nan, như trong bài Căn Nhà:
Sao gọi là sinh, sao gọi là tử
Khi tâm người rỗng lặng trống không.
Đó là các dòng thơ tự thân là những câu hỏi làm chúng
ta mất ngủ, có khi vật vả cả một đời. Khi tâm rỗng lặng? Lấy chữ đâu để ra thơ?
Thắc mắc của tôi cũng hệt như khi đọc thơ của nhiều thiền sư năm xưa, khi sinh
và tử là suy nghĩ trọn đời cho một công án, thế rồi một hôm thấy tâm mình rỗng
lặng, không thấy tâm mình sinh khởi, và do vậy cũng không thấy tâm mình biến diệt
nữa. Thơ Lý Thừa Nghiệp nơi đây là những câu hỏi lớn, với sức mạnh thi ca như
thế, hiển nhiên là thơ của anh phải từ máu xương da thịt của anh, không giống
ai và như một ngọn núi tách rời các rặng núi.
Và do vậy, có rất nhiều khi, thơ Lý Thừa Nghiệp như một
dạng kể lại Kinh Phật, không phải như người tụng kinh đời thường, mà như một
người hát rong Kinh Phật. Thoạt nghe như thơ tình, thoạt nghe như thơ Thiền,
nhưng từng câu chàng đứng hát giữa trận mưa đầy nước mắt của ba cõi vô thường.
Thí dụ, như trong bài Mùa Dược Thảo, trích:
Núi xanh ngăn ngắt mùa dược thảo
Ta đứng bên đồi mưa Pháp Hoa
Cỏ cây bỗng chốc thay dung mạo
Hà sa hà sa lệ nhạt nhòa
….
Ta hẹn em về mùa thảo dược
Bùn sen ngơ ngác tiếng mưa rào
Chớ hỏi vì sao con trăng khuyết
Tam giới rơi đều, bọt nước xao.
Chúng ta có thể thắc mắc: phải chăng Lý Thừa Nghiệp
đang làm thơ, hay đang hát lời Kinh Phật? Vì sao trong thơ họ Lý đầy những pháp
ấn chư Phật? Thí dụ như trong bài Trên Ngàn Năm, chúng ta nhìn thấy pháp ấn Vô
Thường hiển hiện qua các hình ảnh: mưa suốt những ngàn năm chuyển biến, trong
đó cưu mang cả vui và buồn
Mưa trên ngàn năm cũ
Hạnh phúc lẫn ngậm ngùi
Lớn ròng theo thác lũ
Đất trời hề đang trôi...
Hay như pháp ấn Khổ tức là Bất Như Ý, đã ẩn tàng trong
dòng thời gian miên viễn và hiển hiện trong thơ Lý Thừa Nghiệp, qua bài Lên Đồi
Xem Mưa Bay, nơi những cảnh đời như lau sậy bị xô giạt hiện lên trên ngàn ngàn
trang giấy, nơi mưa trôi lũ cuốn trong dòng thời gian, thoạt sinh rồi thoạt tử
không ai hay, trích:
Chầm chậm từng hạt mưa
Rơi trên ngàn trang giấy
Những thân người lau sậy
Qua đời không ai hay
Và kỳ lạ như thế, các bài thơ nghe như là thơ tình, vì
nói về một “em” năm xưa của những ngày mưa hay nắng, khi qua chiếc cầu đã rêu
phong mấy độ vô thường, vậy rồi nhắc nhở tới một đường chim bay của tâm thức…
Phải chăng là thơ tình, hay thơ Thiền? Như trong bài Đường Chim Bay Ngày Trước,
trích:
Em về đây ngày mưa hay ngày nắng
Nhịp cầu này mưa gió đã rêu phong
Xin hãy nhớ đường chim bay ngày trước
Bên rặng dừa biển nối biển mênh mông
Một số bài thơ Lý Thừa Nghiệp dùng nhiều chữ cổ, hình ảnh
cổ. Chữ “thất đại” là trong Kinh Phật, hay các hình ảnh cổ như thời Đường: áo
hoàng hoa, bầy hạc cũ, bờ dâu xưa, khói tang điền… Trường hợp này, độc giả
không đủ kiến văn về tích cổ có thể không nắm hết ý. Dù vậy, ngay cả khi không
hiểu hết, những cảm xúc bùi ngùi cũng hiện ra giữa các dòng thơ của anh, rằng
lia thất đại mới có tri giác thực, từng trang thơ của họ Lý hiện lên các bờ
khói sương vô thường, như trong bài Vỗ Cánh Thiên Thu,
trích:
Ly thất đại bước lên thềm tri giác
Áo hoàng hoa lất phất bên sông
Bầy hạc cũ bay về phương khác
Bờ dâu xưa nghi ngút khói tang điền…
Đặc biệt, Lý Thừa Nghiệp có những bài thơ tình rất mực
đậm đà, nơi đó giai nhân có môi hồng tháng Chạp (tức tháng 12 âm lịch, là gần Tết,
tượng trưng cho mùa xuân sắp đến) thắm đỏ dòng mực từ nghiên bút thư sinh (hẳn
là chàng họ Lý?). Nhưng còn “rám buồng cau” thì sao? Có phải chữ người xưa ám
chỉ “buồng cau” là nữ tính chơm chớm, vừa nhu nhú như cau của cô nàng tuổi mười
lăm? Bài thơ Nghiên Mực Đỏ rất mực lãng mạn, trích:
Nghiên mực đỏ pha hồng môi tháng Chạp
Gió dậy thì ai thổi rám buồng cau
Lòng ta chở nguyên dòng sông bạc
Trăng mười lăm con bướm mộng khay trầu
Một độc đáo của Lý
Thừa Nghiệp còn là thơ lục bát, nơi đây anh viết có khi hệt như ca dao,
có khi hệt như người đạo sĩ thơ mộng đi hái thuốc trên núi Cấm, và có khi hệt
như quý ngài du tăng. Trích phần đầu của bài Tụng Một Thời Kinh như sau:
Vì người tụng một thời kinh
Tôi đi rước nắng về in hiên trời
Chiều trông chiều vẫn thảnh thơi
Tôi đi hái thuốc về in hiên nhà
Tâm ai bủa khắp sơn hà
Tôi đi gieo hạt di đà mười phương
Thể thơ thất ngôn qua tay Lý Thừa Nghiệp cũng là một
tuyệt kỹ. Trong bài thơ đề tặng Hòa Thượng Thích Từ Thông, năm Hòa Thượng 90 tuổi,
nhà thơ họ Lý viết bốn đoạn thơ 7 chữ, mỗi đoạn 4 câu, người xưa gọi là thất
ngôn tứ tuyệt. Cũng cần nhắc rằng, Thầy
Thích Từ Thông còn được nhiều học giả Việt Nam xưng tặng là Đệ nhất giảng sư về
Đại Thừa, với hàng ngàn băng giảng trên YouTube. Trong bài thơ đề tặng Hòa Thượng,
Lý Thừa Nghiệp viết, trích 4 dòng cuối:
Lô nhô sinh tử hề! Như bụi
Tấm áo phong phanh gió bạt ngàn
Cười khan một tiếng rền trăm núi
Xuống hàng vẫy mực thuyết Kim Cang.
Thơ Lý Thừa Nghiệp hay tới như thế, thơ hay tới dậy
sóng khắp biển trời trên từng trang thơ, thơ hay tới cả ngàn năm mưa bụi rù
nhau về mừng ngày hội chữ nghĩa trên thơ, thơ hay tới mức trăng xanh và nắng
vàng cùng về chiếu rọi trên trang chữ. Anh là người dùng thơ để hát các pháp ấn
Kinh Phật.
Vẫy mực thuyết Kim Cang… Tuyệt vời là thơ. Xin ghi lời
trân trọng cảm ơn nhà thơ nơi đây. Rất mực trân trọng.
Phan Tấn Hải
Tháng 3/2018.