Câu
đối ngày Tết
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực Tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay
…………………………..
(Ông đồ già, Vũ đình Liên, 1936)
Thời Hán học, nếu đàn ông không thi đậu làm quan thì
làm nghề dạy học mà người ta nôm na gọi là thầy đồ, ông đồ.
Câu đối là phong tục của người Bách Việt (百越), lảnh thổ ở phía Nam
Trung quốc và phía Bắc Việt nam. Họ treo hai bùa gỗ có hình vị Thần Đồ và thần
Uất Luỹ hai bên cửa ngõ . Theo truyền thuyết, hai vị thần này sống dưới gốc đào
lớn của núi Độ sóc và cai quản đàn quỷ. Về sau người ta thay thế bùa gỗ bằng
hai câu đối và treo trong nhà, ngoài cửa .
Hàng năm khi Tết gần kề, người ta có thú chơi câu đốị.
Người thâm nho thì viết câu có ý nghĩa sâu sắc, người bình dân thì viết câu đơn
giản. Trên bàn thờ thì viết câu nhớ công lao tổ tiên, cha mẹ .
Xưa thì câu đối viết bằng chữ Hán. Câu tận cùng bằng vần
trắc thì treo bên phải (đứng đối diện câu đối) và câu tận cùng bằng vần bằng
thì treo bên trái
人
於
百
行
孝
為
先
|
|
歲
有
四
時
春
在
首
|
Phiên âm:
Tuế hữu tứ thời xuân tại thủ
Nhân ư bách hạnh hiếu vi tiên
Nghĩa là:
Năm có 4 mùa, mùa xuân đứng đầu
Con người có trăm đức hạnh, hiếu hạnh trên hết
Sau đó người ta thay chữ Hán bằng chữ Nôm và cũng theo
hình thức chữ Hán
𠓇
朦
没
教
聀
悉
粥
𫁧
𠊚
謨
|
|
𣋁
𠀧
𨑮
𪪀
教
造
履
𪞷
𢄂
𧸝
|
Phiên âm:
Tối ba mươi thầy giáo tháo giày ra chợ bán
Sáng mồng một giáo chức dứt cháo đợi người mua
Ngày nay không có mấy người biết chữ Hán, chữ Nôm nên
thế hệ trẻ dùng thư pháp viết chữ quốc ngữ và đọc từ trái sang phải (câu vần trắc
bên trái và câu vần bằng bên phải)