Nhạc Bolero hiện đang bàn cãi sôi nổi trong và ngoài
nước.
Nhạc Bolero phải gồm 2 phần, nhịp điệu Bolero cải
cách từ kiểu Latin sang kiểu VN và một nội dung kể một câu chuyện về tình yêu
nói riêng hay về cuộc sống nói chung thường là Trắc trở, ít vui...bằng một ngôn
ngữ giản dị, chân thật, nhắc đi nhắc lại một cách chán chường, không lối
thoát....
Điệu Bolero cũng như nhiều điệu khác như Mambo, cha
cha cha, xì lô, fox, valse...du nhập vào VN từ thời thuộc địa ngoài dạng âm nhạc
thưởng thứ còn dưới dạng khiêu vũ....như một phân chia giai cấp của giới thượng
lưu, giầu sang, trí thức Tây học... muốn tách khỏi giới nông
dân bần cùng, nho học thủ cựu....Phạm Quỳnh đã từng
buồn khi nghe tâm sự của một sinh viên sau khi tốt nghiệp ở Paris là phải cố học
thêm
có bằng Nhẩy đâm để về nước mong gia nhập vào nếp sống
thượng lưu...
Jason Gibbs, tiến sĩ âm nhạc và là học giả về âm nhạc
VN viết....
" Đúng là khiêu vũ là dấu vết để lại của thời
thuộc địa ở Việt Nam. Khiêu vũ từng là một phần của thế giới cao cấp, không phải
là thế giới của đa số nông dân Việt Nam. Thực tế giới thượng lưu có ý định dùng
khiêu vũ như một thứ ghi dấu nhằm tách người nông dân đứng xa khỏi thế giới của
mình. Tuy nhiên, những tầng lớp thấp hơn thông qua thị trường âm nhạc đã tìm thấy
một phép màu của khiêu vũ ở vũ trường mà họ có thể thưởng thức được - đầu tiên
là mambo, nhưng quan trọng hơn là điệu rumba / bolero. Bolero có thể dễ hòa nhập
vào giới hạ lưu mà không phải băn khoăn chuyện học hỏi với vũ sư. Mặc dù khiêu
vũ đã trở thành một hình tượng ẩn dụ của sự tiến bộ trong âm nhạc, những người
“gác cổng của xã hội”, tức những người có quyền lực đối với văn nghệ lúc ấy chỉ
nhìn thấy sự lố bịch khi những tầng lớp nông dân thu nhận. Nhưng đến thời sau
đó, sự hợp lưu của những nhạc sĩ, ca sĩ hăng hái và một công chúng rộng rãi giầu
thiện tâm đã nuôi dưỡng một kiểu nhạc còn tồn tại cho đến nay. Nó là một thể loại
ca khúc phổ thông pha trộn mà hiện nay ở Việt Nam hầu như chỗ nào cũng nghe thấy,
dẫu ít khi được bàn đến. ".
Thể loại ca khúc phổ thông tồn tại đấy là
nhạc Bolero. Khoảng năm 1950, giới nghệ sĩ, sinh viên học sinh....bản địa
VN nghe nhạc Tây mãi cũng ngấm, bắt đầu tập tành sáng tác những
ca khúc VN với điệu nhạc Tây phương này....cho hợp với thính giả
VN, đa số, đến 90%? là Nông dân và lao động vốn thường
nghe chèo cổ, cải lương... Những bản nhạc mới được sáng tác theo
...tân cổ giao duyên...như hát xong bài này là ca sĩ có chớn vào vọng cổ dễ
dàng. Vì thế điệu Bolero phải thay đổi tí chút về cao độ, chậm hơn tí
chút.... Jason Gibbs viết tiếp...
" ....Ở đây những đặc điểm điệu thức thậm chí
còn thấy rõ hơn - mọi nốt đô và rê đều cao hơn một phần tư cao độ.
Kiểu bài hát bolero này mọc lên như nấm suốt những năm 1960, sau đó khá lâu bolero còn là kiểu tồn tại được riêng trong kiểu nhạc Latin quốc tế. [8] Nó trở thành thứ bị chế giễu là nhạc máy nước hay thông dụng hơn, nhạc sến. [9] Thuật ngữ nhạc sến có nguồn gốc từ tiếng lóng Marie Sến. [10] Thuật ngữ miền Bắc dùng để gọi những cô hầu trẻ, mà ta đã xem ở ví dụ 5, là con sen. Những gia đình thượng lưu di cư vào Nam cũng rất chuộng dùng tiếng Pháp và vì thế trong nhà họ hay gọi luôn những cô hầu bằng cái tên “Marie.” Thông thường có nhiều nước các cô hầu gái là những người ra thành thị làm việc kiếm tiền cho gia đình mình. Thuật ngữ nhạc máy nước gợi ra cảnh những phụ nữ này tụ tập ở những máy nước công cộng để lấy nước mang về nhà chủ. Trong khi chờ đợi họ hát vài khúc cải lương, dân ca mambo hay bài hát bolero cho nhau để tiêu khiển vui vẻ.
Một dòng không ngớt những bài hát như thế được sáng tác từ cuối những năm 1950 cho đến ngày giải phóng của cộng sản năm 1975. Những ca khúc này tiếp tục được ưa thích trong số nhiều người nông dân và lao động. Chúng trở nên phổ biến vì dễ hát – đơn giản hơn cả cải lương. Một điệu bolero nhẹ nhàng, không ngừng thổi sinh khí cho những ca khúc ấy, tạo nên một vỏ bọc bên ngoài hấp dẫn cho cái khung sườn giai điệu truyền thống được đơn giản hóa. Lời lẽ đơn giản, trực tiếp và thường bận tâm đến những ham muốn và thất vọng trong cuộc sống, rất giống với ca khúc enka của Nhật Bản. [11] "
Kiểu bài hát bolero này mọc lên như nấm suốt những năm 1960, sau đó khá lâu bolero còn là kiểu tồn tại được riêng trong kiểu nhạc Latin quốc tế. [8] Nó trở thành thứ bị chế giễu là nhạc máy nước hay thông dụng hơn, nhạc sến. [9] Thuật ngữ nhạc sến có nguồn gốc từ tiếng lóng Marie Sến. [10] Thuật ngữ miền Bắc dùng để gọi những cô hầu trẻ, mà ta đã xem ở ví dụ 5, là con sen. Những gia đình thượng lưu di cư vào Nam cũng rất chuộng dùng tiếng Pháp và vì thế trong nhà họ hay gọi luôn những cô hầu bằng cái tên “Marie.” Thông thường có nhiều nước các cô hầu gái là những người ra thành thị làm việc kiếm tiền cho gia đình mình. Thuật ngữ nhạc máy nước gợi ra cảnh những phụ nữ này tụ tập ở những máy nước công cộng để lấy nước mang về nhà chủ. Trong khi chờ đợi họ hát vài khúc cải lương, dân ca mambo hay bài hát bolero cho nhau để tiêu khiển vui vẻ.
Một dòng không ngớt những bài hát như thế được sáng tác từ cuối những năm 1950 cho đến ngày giải phóng của cộng sản năm 1975. Những ca khúc này tiếp tục được ưa thích trong số nhiều người nông dân và lao động. Chúng trở nên phổ biến vì dễ hát – đơn giản hơn cả cải lương. Một điệu bolero nhẹ nhàng, không ngừng thổi sinh khí cho những ca khúc ấy, tạo nên một vỏ bọc bên ngoài hấp dẫn cho cái khung sườn giai điệu truyền thống được đơn giản hóa. Lời lẽ đơn giản, trực tiếp và thường bận tâm đến những ham muốn và thất vọng trong cuộc sống, rất giống với ca khúc enka của Nhật Bản. [11] "
Nhưng không phải, so với Bolero nguyên gốc, nhạc
Bolero chỉ bị biến đổi ở VN mà biến đổi ở mọi nước khác.... Mỗi nước có một
loại nhạc Bolero riêng. Như ở nước Anh, bản nhạc Yesterday do ban The Beatles
hát...chính là nhạc Bolero.
Xin đọc,
DS.LVKh...
Luis Rumbaut
Ðiệu bolero
Hoài Phi dịch
Ðiệu bolero được khai sinh ở Santiago, một
thành phố miền đông Cuba. Khác với một số thể loại nhạc khác, người ta có thể
chỉ ra thời điểm ra đời chính xác của bolero: sáng tác bolerođầu
tiên, “Tristezas”, do Pepe Sánchez viết vào năm 1883 hoặc sau đó ít lâu. Nhưng,
giống như những thể loại nhạc khác, bolero không xuất phát từ khoảng
không và không liên quan gì tới những thể loại trước nó. Nguồn gốc của thể loại
nhạc này – ít nhất là cái tên của nó - bắt nguồn từ bolero Tây Ban
Nha, một điệu nhạc nhảy nhẹ nhịp 3/4. Một điều bất ngờ là bolero cũng
có phần bắt nguồn từ điệu nhảy đồng quê Anh, sau này được biết đến ở Pháp với
cái tên contradanse. [1] Khi những nhà thực dân Pháp trốn tránh cuộc
cách mạng Haiti suốt vùng eo biển miền đông Cuba, họ đã mang theo điệu nhạc này
(trong tiếng Tây Ban Nha là contradanza). Từ điệu contradanza của
Cuba, hay đơn giản là danza - các thể thức tương tự được gọi như vậy ở
Puerto Rico và Mexico, xuất hiện điệu trova, loại
nhạc truyền thống của các nghệ sĩ guitar đường phố (troubadour) ở miền đông đảo
Cuba. Ðiệu danzacũng là nền tảng của điệu habanera;
tên được đặt ở châu Âu sau khi điệu nhạc vượt biển sang lục địa này. Bản habanera đầu
tiên, “La Pimienta”, ra đời năm 1836. Vào năm 1884, vào khoảng thời gian khi
Sánchez sáng tác bài bolero đầu tiên, thì “La Paloma” của Sebastian
Yradier, một bản habanera kinh điển, đang hết sức thịnh hành ở Mexico
và ở Mỹ.
Ðiệu contradanza, vốn phong nhã và chừng mực, biến đổi theo những âm thanh từ hòn đảo (Cuba), nơi vào thế kỷ 19, dân số gốc Phi đã vượt quá dân số Tây Ban Nha và Creole [2] . Vào đầu thế kỷ 20, điệu nhạc nhảy son (Son Cubano) bắt đầu tiến bước chinh phục (lại) từ Santiago đến Havana. Thậm chí các tầng lớp thượng lưu hơn trong xã hội cũng đồng hoá điệu nhạc nhảy địa phương mới này.
Trong thời kỳ cực thịnh của nhạc son và danzón, bolero truyền thống phần nào bị gạt sang rìa vì điệu nhạc này không hoàn toàn thích ứng cho khiêu vũ, không được các ca sĩ soneromới thuộc nhóm bảy người septets [3] và sáu người sextets [4] đồng hoá, hoặc được các ban nhạc tiêu biểu chơi, hay hoà vào các điệu charanga. Nhưng thực tế là trong những năm đó, các nghệ sĩ hát rong vẫn tiếp tục phát triển thể loại này; họ dùng cây đàn guitar và giọng ca để thể hiện một số bài hát tuyệt đẹp nhất trong lịch sử âm nhạc Cuba, trong đó có nhiều bản thuộc thể loại bolero.
Trên nền tảng pha trộn các điệu danza, habanera, trova và son, cùng các giai điệu địa phương cũng như gốc Phi và gốc Âu, điệu bolero mới ra đời. Mặc dù lấy tên từ điệu bolerocủa Tây Ban Nha với nhịp 3/4, bolero mới thay đổi nhịp thành 2/4 và sau đó thành 4/4. Nhà nghiên cứu âm nhạc người Cuba Argeliers León cho rằng phong cách đánh trải (strumming) và cách chơi lead guitar chắc chắn cũng chịu ảnh hưởng của điệu sones của Yucatan, kết quả của những trao đổi mới được khôi phục lại giữa Cuba và Mexico. Ngoài thay đổi về nhịp, bolero mới cũng có những cái khác trước. Một trong những dấu ấn ảnh hưởng của châu Phi là điệu cinquillo, hay nhóm năm nốt [trong một khuôn nhạc] (five-note cluster), xuất phát từ Haiti, khởi đầu xác định cách phân nhịp ca từ, và kế đến là soạn toàn bài. [5] Một đặc điểm mới khác là phần nhạc đệm có thêm claves hoặc maracas, và cuối cùng, cả trống bongo hoặc conga.
Ðặc điểm của bolero là một loại nhạc luôn đi kèm với ca từ và rõ ràng được viết ra để hát, và qua tiếng hát, thể hiện tình cảm, thậm chí các quan niệm và tiêu chuẩn về cuộc sống nói chung và tình yêu nói riêng. Ta không thể nói đến bolero mà không đề cập đến nội dung của chúng: các vần điệu tình tứ và riêng tư. Những tình cảm yêu đương hay thất vọng được tuyên bố hoặc thể hiện bằng một thứ ngôn ngữ giản dị và chân thật, qua những ca từ đôi khi lặp lại hoặc đơn giản một cách thái quá. Sau khi đã trở thành một điệu nhạc nhảy, các ban nhạc đủ loại khác nhau đều chơi bolero; điệu nhạc này giành được thành công tuyệt đối, vì nó cho phép đôi bạn nhảy có thể ngừng nghỉ, với những bước khiêu vũ chậm hơn.
Tóm lại, điệu bolero khởi đầu, và hiện vẫn vậy, là nhạc tình, nhưng là loại nhạc tình có thể khiêu vũ được, thể hiện ký ức tình yêu ngọt ngào hoặc đắng cay, nhưng có nhịp nhảy (swing). Trong thuật ngữ thường dùng, có một biến tấu được gọi là bolero tropical, khiến bài hát có một tình cảm sinh động hơn, trong khi vẫn giữ nhịp bằng việc đánh trải hợp âm lặp đi lặp lại sau khi gảy nốt trầm (bass).
José “Pepe” Sánchez sinh năm 1856 ở Santiago. Sáng tác giai điệu của ông được một số nhà soạn nhạc nổi tiếng nhất Cuba đầu và giữa thế kỷ 20 kế tục, bao gồm đồng hương của ông là Miguel Matamoros, thuộc ban nhạc Trío Matamoros nổi tiếng, và Sindo Garay, nhà soạn nhạc và biểu diễn trova. Trong số những ngôi sao âm nhạc góp phần vào việc thịnh hành hoá điệu bolero có José Antonio Méndez, Benny Moré, Maria Teresa Vera, và César Portillo de la Luz. Khi điệu bolero bắt đầu được biết đến ở bên ngoài thì nhạc sĩ từ hai nước láng giềng của Cuba là Mexico và Puerto Rico, góp phần với những sáng tác và cải biên của họ, và trở thành một phần không thể tách rời khỏi lịch sử và sự phát triển của bolero. Ca sĩ người Costa Rica, biểu diễn thể loại ranchera của Mexico, bắt đầu hát bolero; sau này, tên tuổi của Agustín Lara, nhạc sĩ sáng tác rất nhiều bài bolero nổi tiếng, và ban nhạc Trío Los Panchos, được gắn liền với thể loại nhạc này. Ở Puerto Rico, một hiện tượng tương tự cũng xuất hiện với nhiều nhạc sĩ và ca sĩ, trong đó có Rafael Hernández, Daniel Santos và Boby Capó.
Ðiệu bolero vượt qua Mexico và vùng Caribbean, sang Columbia, Chile, Venezuela, Cộng hoà Dominique, Ecuador, Bolivia, Argentina, Brazil, rồi quay trở về Tây Ban Nha. Ở Chile, Lucho Gatica, ca sĩ chuyên hát các bản dân ca lãng mạn, và cặp Sonia cùng Miryam, trở thành những người chuyên biểu diễn bolero. Ngay cả ở Mỹ, Eydie Gorme và Vicky Carr cũng trở nên nổi tiếng với loại nhạc này. Carr sinh ra ở El Paso, Texas, bắt đầu nghiệp ca sĩ nhạc nhẹ tiếng Anh, nhưng cuối cùng chuyển sang các bài hát Châu Mỹ Latin, và giành được ba giải Grammy cho các bài cô hát bằng tiếng Tây Ban Nha. Nhạc trưởng người Cuba Antonio Machín, sau khi di cư sang Mỹ và trở nên nổi tiếng ở đây, cũng phát hành đồng thời 2 đĩa nhạc, “Tributo al Bolero Mexicano” và “Tributo al Bolero Cubano.”
Là thể loại nhạc lãng mạn với tiết tấu chậm, ngày nay, điệu bolero không còn quyến rũ các ca sĩ trẻ như trong quá khứ nữa. Mặc dầu vậy, trong những năm gần đây, những ca sĩ trình diễn có tên tuổi và có ý thức về thị trường như Luis Miguel và Ana Gabriel ở Mexico, hay Gloria Estefan ở Mỹ, đều quay lại với bolero. Trong khi đó, bộ ba nam ca sĩ trẻ trong ban nhạc Los Tri-O của Colombia đã làm nhiều khán thính giả ngạc nhiên với việc họ tái tạo lại phong cách của Los Panchos - thậm chí một người trong số họ có đeo một chiếc khuyên tai. Trước nhóm này, ca sĩ người Peru Tania Liberstad, định cư ở Mexico, đã cuốn hút được một lượng khán giả đông đảo qua những thể hiện bolero.
Giống như việc bắt nguồn từ những thể loại nhạc có trước đó, bolero cũng chuyển đổi hoặc có ảnh hưởng tới sự phát triển của một số thể thức sau nó. Một dòng nhạc tiến hoá tự nhiên xuất phát từ bolero, dẫn tới thể loại filin của Cuba (tiếng Anh là feeling - tình cảm). Loại nhạc này pha trộn giữa dân ca, bolero và nhạc jazz, nổi tiếng nhất với Elena Burke cho đến khi bà qua đời vào năm 2002. Trong số các ca sĩ khác hát loại nhạc này còn có Pablo Milanés. Có nhiều khả năng là thể loại bachata của Cộng hoà Dominique cũng bắt nguồn từ bolero. Thậm chí, thế giới nói tiếng Anh cũng không tránh khỏi bị bolero ảnh hưởng. Ví dụ, người ta cho rằng điệu beguine là lời Mỹ đáp lại nhạc bolero, mặc dù beguine xuất phát từ Martinique. Dù sao đi nữa, ta vẫn có thể dễ dàng thấy được mối liên hệ giữa thanh âm điển hình của bolero với bài “Begin the Beguine” hoặc bài “Night and Day”, những giai điệu được sáng tác vào thời điểm khi bolero đã phát triển thành một khuôn khổ quen thuộc. Ca từ của “Begin the Beguine” ngầm gợi nhớ lại nguồn cảm hứng sáng tác bài hát, “Khi họ bắt đầu [chơi điệu] beguine/ mang lại âm nhạc thật dịu dàng/ mang lại đêm nhiệt đới huy hoàng/ mang lại ký ức mãi mãi xanh…” [6] Ở phía bên kia của đại dương, ta cũng thấy trường hợp tương tự: các fan của nhóm Beatles có thể chế giễu ý tưởng là Paul McCartney viết bolero, nhưng sẽ khó buộc họ xếp bài “Yesterday” vào bất kỳ loại nhạc nào khác ngoài bolero.
Bản tiếng Việt © talawas
Ðiệu contradanza, vốn phong nhã và chừng mực, biến đổi theo những âm thanh từ hòn đảo (Cuba), nơi vào thế kỷ 19, dân số gốc Phi đã vượt quá dân số Tây Ban Nha và Creole [2] . Vào đầu thế kỷ 20, điệu nhạc nhảy son (Son Cubano) bắt đầu tiến bước chinh phục (lại) từ Santiago đến Havana. Thậm chí các tầng lớp thượng lưu hơn trong xã hội cũng đồng hoá điệu nhạc nhảy địa phương mới này.
Trong thời kỳ cực thịnh của nhạc son và danzón, bolero truyền thống phần nào bị gạt sang rìa vì điệu nhạc này không hoàn toàn thích ứng cho khiêu vũ, không được các ca sĩ soneromới thuộc nhóm bảy người septets [3] và sáu người sextets [4] đồng hoá, hoặc được các ban nhạc tiêu biểu chơi, hay hoà vào các điệu charanga. Nhưng thực tế là trong những năm đó, các nghệ sĩ hát rong vẫn tiếp tục phát triển thể loại này; họ dùng cây đàn guitar và giọng ca để thể hiện một số bài hát tuyệt đẹp nhất trong lịch sử âm nhạc Cuba, trong đó có nhiều bản thuộc thể loại bolero.
Trên nền tảng pha trộn các điệu danza, habanera, trova và son, cùng các giai điệu địa phương cũng như gốc Phi và gốc Âu, điệu bolero mới ra đời. Mặc dù lấy tên từ điệu bolerocủa Tây Ban Nha với nhịp 3/4, bolero mới thay đổi nhịp thành 2/4 và sau đó thành 4/4. Nhà nghiên cứu âm nhạc người Cuba Argeliers León cho rằng phong cách đánh trải (strumming) và cách chơi lead guitar chắc chắn cũng chịu ảnh hưởng của điệu sones của Yucatan, kết quả của những trao đổi mới được khôi phục lại giữa Cuba và Mexico. Ngoài thay đổi về nhịp, bolero mới cũng có những cái khác trước. Một trong những dấu ấn ảnh hưởng của châu Phi là điệu cinquillo, hay nhóm năm nốt [trong một khuôn nhạc] (five-note cluster), xuất phát từ Haiti, khởi đầu xác định cách phân nhịp ca từ, và kế đến là soạn toàn bài. [5] Một đặc điểm mới khác là phần nhạc đệm có thêm claves hoặc maracas, và cuối cùng, cả trống bongo hoặc conga.
Ðặc điểm của bolero là một loại nhạc luôn đi kèm với ca từ và rõ ràng được viết ra để hát, và qua tiếng hát, thể hiện tình cảm, thậm chí các quan niệm và tiêu chuẩn về cuộc sống nói chung và tình yêu nói riêng. Ta không thể nói đến bolero mà không đề cập đến nội dung của chúng: các vần điệu tình tứ và riêng tư. Những tình cảm yêu đương hay thất vọng được tuyên bố hoặc thể hiện bằng một thứ ngôn ngữ giản dị và chân thật, qua những ca từ đôi khi lặp lại hoặc đơn giản một cách thái quá. Sau khi đã trở thành một điệu nhạc nhảy, các ban nhạc đủ loại khác nhau đều chơi bolero; điệu nhạc này giành được thành công tuyệt đối, vì nó cho phép đôi bạn nhảy có thể ngừng nghỉ, với những bước khiêu vũ chậm hơn.
Tóm lại, điệu bolero khởi đầu, và hiện vẫn vậy, là nhạc tình, nhưng là loại nhạc tình có thể khiêu vũ được, thể hiện ký ức tình yêu ngọt ngào hoặc đắng cay, nhưng có nhịp nhảy (swing). Trong thuật ngữ thường dùng, có một biến tấu được gọi là bolero tropical, khiến bài hát có một tình cảm sinh động hơn, trong khi vẫn giữ nhịp bằng việc đánh trải hợp âm lặp đi lặp lại sau khi gảy nốt trầm (bass).
José “Pepe” Sánchez sinh năm 1856 ở Santiago. Sáng tác giai điệu của ông được một số nhà soạn nhạc nổi tiếng nhất Cuba đầu và giữa thế kỷ 20 kế tục, bao gồm đồng hương của ông là Miguel Matamoros, thuộc ban nhạc Trío Matamoros nổi tiếng, và Sindo Garay, nhà soạn nhạc và biểu diễn trova. Trong số những ngôi sao âm nhạc góp phần vào việc thịnh hành hoá điệu bolero có José Antonio Méndez, Benny Moré, Maria Teresa Vera, và César Portillo de la Luz. Khi điệu bolero bắt đầu được biết đến ở bên ngoài thì nhạc sĩ từ hai nước láng giềng của Cuba là Mexico và Puerto Rico, góp phần với những sáng tác và cải biên của họ, và trở thành một phần không thể tách rời khỏi lịch sử và sự phát triển của bolero. Ca sĩ người Costa Rica, biểu diễn thể loại ranchera của Mexico, bắt đầu hát bolero; sau này, tên tuổi của Agustín Lara, nhạc sĩ sáng tác rất nhiều bài bolero nổi tiếng, và ban nhạc Trío Los Panchos, được gắn liền với thể loại nhạc này. Ở Puerto Rico, một hiện tượng tương tự cũng xuất hiện với nhiều nhạc sĩ và ca sĩ, trong đó có Rafael Hernández, Daniel Santos và Boby Capó.
Ðiệu bolero vượt qua Mexico và vùng Caribbean, sang Columbia, Chile, Venezuela, Cộng hoà Dominique, Ecuador, Bolivia, Argentina, Brazil, rồi quay trở về Tây Ban Nha. Ở Chile, Lucho Gatica, ca sĩ chuyên hát các bản dân ca lãng mạn, và cặp Sonia cùng Miryam, trở thành những người chuyên biểu diễn bolero. Ngay cả ở Mỹ, Eydie Gorme và Vicky Carr cũng trở nên nổi tiếng với loại nhạc này. Carr sinh ra ở El Paso, Texas, bắt đầu nghiệp ca sĩ nhạc nhẹ tiếng Anh, nhưng cuối cùng chuyển sang các bài hát Châu Mỹ Latin, và giành được ba giải Grammy cho các bài cô hát bằng tiếng Tây Ban Nha. Nhạc trưởng người Cuba Antonio Machín, sau khi di cư sang Mỹ và trở nên nổi tiếng ở đây, cũng phát hành đồng thời 2 đĩa nhạc, “Tributo al Bolero Mexicano” và “Tributo al Bolero Cubano.”
Là thể loại nhạc lãng mạn với tiết tấu chậm, ngày nay, điệu bolero không còn quyến rũ các ca sĩ trẻ như trong quá khứ nữa. Mặc dầu vậy, trong những năm gần đây, những ca sĩ trình diễn có tên tuổi và có ý thức về thị trường như Luis Miguel và Ana Gabriel ở Mexico, hay Gloria Estefan ở Mỹ, đều quay lại với bolero. Trong khi đó, bộ ba nam ca sĩ trẻ trong ban nhạc Los Tri-O của Colombia đã làm nhiều khán thính giả ngạc nhiên với việc họ tái tạo lại phong cách của Los Panchos - thậm chí một người trong số họ có đeo một chiếc khuyên tai. Trước nhóm này, ca sĩ người Peru Tania Liberstad, định cư ở Mexico, đã cuốn hút được một lượng khán giả đông đảo qua những thể hiện bolero.
Giống như việc bắt nguồn từ những thể loại nhạc có trước đó, bolero cũng chuyển đổi hoặc có ảnh hưởng tới sự phát triển của một số thể thức sau nó. Một dòng nhạc tiến hoá tự nhiên xuất phát từ bolero, dẫn tới thể loại filin của Cuba (tiếng Anh là feeling - tình cảm). Loại nhạc này pha trộn giữa dân ca, bolero và nhạc jazz, nổi tiếng nhất với Elena Burke cho đến khi bà qua đời vào năm 2002. Trong số các ca sĩ khác hát loại nhạc này còn có Pablo Milanés. Có nhiều khả năng là thể loại bachata của Cộng hoà Dominique cũng bắt nguồn từ bolero. Thậm chí, thế giới nói tiếng Anh cũng không tránh khỏi bị bolero ảnh hưởng. Ví dụ, người ta cho rằng điệu beguine là lời Mỹ đáp lại nhạc bolero, mặc dù beguine xuất phát từ Martinique. Dù sao đi nữa, ta vẫn có thể dễ dàng thấy được mối liên hệ giữa thanh âm điển hình của bolero với bài “Begin the Beguine” hoặc bài “Night and Day”, những giai điệu được sáng tác vào thời điểm khi bolero đã phát triển thành một khuôn khổ quen thuộc. Ca từ của “Begin the Beguine” ngầm gợi nhớ lại nguồn cảm hứng sáng tác bài hát, “Khi họ bắt đầu [chơi điệu] beguine/ mang lại âm nhạc thật dịu dàng/ mang lại đêm nhiệt đới huy hoàng/ mang lại ký ức mãi mãi xanh…” [6] Ở phía bên kia của đại dương, ta cũng thấy trường hợp tương tự: các fan của nhóm Beatles có thể chế giễu ý tưởng là Paul McCartney viết bolero, nhưng sẽ khó buộc họ xếp bài “Yesterday” vào bất kỳ loại nhạc nào khác ngoài bolero.
Bản tiếng Việt © talawas
[1]Ðiệu nhảy đồng quê/nông thôn/dân dã.
[2]Từ creole rất phức tạp, nhưng thường được dùng để chỉ cộng đồng lai và những người da trắng sinh ra và lớn lên tại các thuộc địa của châu Âu trước đây.
[3]Septets: Bản nhạc dành cho bảy người diễn.
[4]Sextet: Bản nhạc dành cho sáu người diễn.
[5]Vào thời kỳ đó, khi các thể hiện khiêu vũ đang chiếm ưu thế, một số nhà soạn nhạc, cho piano chứ không phải cho guitar, bắt đầu sáng tác các bản bolero dần dần khác kiểu bolero cũ. Ðàn piano, với nhiều khả năng diễn đạt hơn guitar, trong khi vẫn duy trì nhịp cinquillobằng tay trái, cho phép [người chơi đàn] giới thiệu một bước ngoặt giai điệu khác, sau này sẽ chiếm ưu thế so với nhịp điệu cứng nhắc của cinquillo cho đến khi điệu này biến mất. Tương tự như vậy, việc âm nhạc hoá (musicalization) các vần thơ cũng góp phần vào sự biến mất (của cinquillo), vì điều này cho người biểu diễn được nhiều tự do hơn, không cần gắn chặt vào một nền tảng nhịp điệu. Bài “Aquellos ojos verdes”, nhạc của Nilo Menéndez và lời của Adolfo Utrera, tóm tắt được quá trình thay đổi này.
(http://www.cubamusic.com/about_cuban_music/genres/boleros/index.shtml)
[2]Từ creole rất phức tạp, nhưng thường được dùng để chỉ cộng đồng lai và những người da trắng sinh ra và lớn lên tại các thuộc địa của châu Âu trước đây.
[3]Septets: Bản nhạc dành cho bảy người diễn.
[4]Sextet: Bản nhạc dành cho sáu người diễn.
[5]Vào thời kỳ đó, khi các thể hiện khiêu vũ đang chiếm ưu thế, một số nhà soạn nhạc, cho piano chứ không phải cho guitar, bắt đầu sáng tác các bản bolero dần dần khác kiểu bolero cũ. Ðàn piano, với nhiều khả năng diễn đạt hơn guitar, trong khi vẫn duy trì nhịp cinquillobằng tay trái, cho phép [người chơi đàn] giới thiệu một bước ngoặt giai điệu khác, sau này sẽ chiếm ưu thế so với nhịp điệu cứng nhắc của cinquillo cho đến khi điệu này biến mất. Tương tự như vậy, việc âm nhạc hoá (musicalization) các vần thơ cũng góp phần vào sự biến mất (của cinquillo), vì điều này cho người biểu diễn được nhiều tự do hơn, không cần gắn chặt vào một nền tảng nhịp điệu. Bài “Aquellos ojos verdes”, nhạc của Nilo Menéndez và lời của Adolfo Utrera, tóm tắt được quá trình thay đổi này.
(http://www.cubamusic.com/about_cuban_music/genres/boleros/index.shtml)
[6]“When they begin the beguine/ It brings back the sound of music so tender/ It brings back a night of tropical splendor/ It brings back a memory ever green…”
Nguồn:
Nguồn: http://www.lafi.org/magazine/articles/bolero.html
Nguồn: http://www.lafi.org/magazine/articles/bolero.html