Trên trang mạng Bách Việt, ông Trần Kinh Nghị có bài
“Di sản Hán Việt”*. Sau khi nhận định: quãng trên dưới 70-80 % từ vựng tiếng Việt
có thành tố Hán-Việt, ông cho rằng “nếu vì một lý do nào đó mà để ngôn ngữ nước
mình bị một ngôn ngữ khác lấn át và tình trạng lấn át kéo dài chắc chắn sẽ dẫn
đến nguy cơ bị đồng hóa hoặc thoái hóa.” Kết thúc bài viết, ông đề nghị Nhà nước
có biện pháp hạn chế việc dùng từ Hán Việt để giữ gìn sự trong sáng của tiếng
Việt.
Đồng cảm với nỗi bức thúc của ông nhưng nhận thấy
đây là vấn đề lớn và không hề đơn giản, chúng tôi xin thưa lại đôi lời.
Đông Bác Cổ “không thèm chấp” gã tay ngang võ biền. Không chỉ
vậy, vào năm 1937-1938 còn có cuộc tranh luận giữa nhà ngữ học
trẻ người Ba Lan Prilusky với viện sĩ Maspéro. Từ khảo cứu của
mình, Prilusky phát triển quan điểm của H. Frey nhưng kết cục
phần thắng thuộc về bậc lão làng!
vậy, vào năm 1937-1938 còn có cuộc tranh luận giữa nhà ngữ học
trẻ người Ba Lan Prilusky với viện sĩ Maspéro. Từ khảo cứu của
mình, Prilusky phát triển quan điểm của H. Frey nhưng kết cục
phần thắng thuộc về bậc lão làng!
Kết luận của Viện Viễn Đông Bác Cổ dáng đòn hủy diệt
không chỉ vào văn hóa mà cả vào tương lai dân tộc Việt Nam! Do ngón đòn ác hiểm
này mà sau đó, khi phân loại ngôn ngữ phương Đông, đề xuất một họ ngôn ngữ
Annam bị bãi bỏ do“không xứng đáng vì vay mượn quá nhiều từ nước ngoài!” Thay
vào đó là họ ngôn ngữ mang cái tên không tiêu biểu: ngôn ngữ Mon-Khmer. Kết
quả là cho đến nay, trong sách giao khoa ngôn ngữ của nhiều đại học hàng đầu thế
giới vẫn viết “Tiếng Việt vay mượn khoảng 60% từ ngôn ngữ Trung Hoa (!)” Dù sao
thì cũng được an ủi phần nào vì 60% ít hơn con số chúng ta tự nhận!
Điều khủng khiếp nhất là, vào thập niên 1920, các học
giả tiên phong người Việt như Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Tố… tiếp nhận tri thức
sai lầm đó, dạy cho con dân Việt. Ý tưởng tiếng Việt vay mượn tiếng Hán như cỏ
dại lan rộng trên cánh đồng tư tưởng, thấm tới toàn bộ người có học Việt Nam hiện
nay! Gần suốt thế kỷ, học giả Việt không một lời cãi lại. Ở thập niên 80, trong
công trình ngữ học công phu Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán
Việt, Nguyễn Tài Cẩn “khám phá”: ngoài cái gọi là “từ Hán Việt”, trong tiếng Việt
còn lớp từ Hán cổ và lớp từ Hán Việt Việt hóa (1). Không đưa ra
con số thống kê nhưng với hai lớp từ được bổ suI. Có đúng tiếng Việt vay mượn từ ngôn ngữ Hán?
Muốn giải quyết thỏa đáng chuyện này, không còn cách nào khác là phải đi tới tận cùng cội nguồn ngôn ngữ, không chỉ của người Việt mà cả của người Trung Hoa.
Nửa sau thế kỷ XIX, ngay khi chưa đặt xong ách đô hộ trên toàn cõi Vệt Nam, những học giả người Pháp đã có mặt để nghiên cứu thiên nhiên, con người, văn hóa, xã hội xứ Annam. Từ kết quả nghiên cứu, năm 1898, nhà nước bảo hộ Pháp cho thành lập Viện Viễn Đông Bác Cổ tại Hà Nội. Đứng đầu lĩnh vực khoa học nhân văn là những nhà Hán học như E. Aymonier, L. Maspéro… Là học giả phương Tây, họ mang quan niệm Âu trung: châu Âu là trung tâm của văn minh nhân loại. Là nhà Hán học, họ theo thuyết Hoa tâm: Trung Hoa là trung tâm của châu Á. Họ cũng chịu ảnh hưởng của tri thức sai lầm đương thời cho rằng, con người từ Tây Tạng xâm nhập Trung Quốc rồi sau đó xuống Việt Nam và Đông Nam Á nên ánh sáng văn minh cũng từ Trung Hoa lan tỏa tới phương Nam. Khi nghiên cứu tiếng nói của người Việt Nam, họ có trong tay những bộ từ điển Trung Hoa đồ sộ như Từ Hải, Tứ khố toàn thư, Khang Hy… Trong khi đó, tiếng Việt chỉ có Từ điển Việt-Bồ-La của Alexander de Rhodes cùng Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của, hai cuốn sách nhỏ, tập hợp từ ngữ Việt chữ Latinh mới có khoảng 300 tuổi. Bằng thao tác đơn giản là thống kê, so sánh những từ được cho là gốc Hán có trong tiếng Việt, họ eureka: “Tiếng Việt mượn khoảng 70% từ Hán ngữ!”
Sự thật có đúng như vậy không?
Vào năm 1898, H. Frey, một đại tá người Pháp, từng công tác ở Tây Phi sau đó có mặt ở Việt Nam, đã xuất bản cuốn Tiếng Annam, mẹ của các ngữ (L’Annamite, mère des langues): Tiếng Annam, xuất xứ của các ngôn ngữ: Cộng đồng các chủng tộc Xentơ, Xémit, Xuđăng và Đông Dương. Bằng kinh nghiệm ở Châu lục đen, nhà ngữ học chân thực này cho rằngtiếng Việt gần gũi với tiếng các sắc dân châu Phi và là nguồn cội của mọi ngôn ngữ phương Đông. Tiếp đó ông còn cho ra hai cuốn khác khẳng định quan điểm của mình. Tuy nhiên, các viện sĩ của Viễnng đó, có lẽ tỷ trọng vay mượn của
tiếng Việt còn tăng lên gấp bội!
Nhưng dù sao, đấy chỉ là tính toán của nhà bác học,
còn với người dân Việt, ít người tin, chỉ vì lý do đơn giản: một dân tộc vay mượn
đến bằng nấy tiếng nước ngoài không thể là dân tộc trưởng thành, chắc chắn đã bị
đồng hóa sau nghìn năm nô lệ!
Năm 2006, từ nghiên cứu của mình, chúng tôi công bố
bài viết Tiếng Việt là chủ thể tạo nên ngôn ngữ Trung Hoa (2). Rất may là
ý tưởng “điên rồ” đó chẳng những không bị ném đá mà còn không rơi vào im lặng.
Ít lâu sau, từ Sacramento nước Mỹ, nhà nghiên cứu Đỗ Ngọc Thành gửi cho chúng
tôi những bài viết chấn động: Phát hiện lại Việt Nhân ca, Phục nguyên Duy
giáp lệnh của Việt vương Câu Tiễn, Đi tìm nguồn gốc chữ Nôm…(3) trong đó dẫn ra
hàng nghìn bằng chứng không thể phản bác cho thấy, tiếng nói nguyên thủy của
người Trung Hoa là tiếng Việt. Người bạn Việt Triều Châu của tôi khẳng định: “Tất
cả các chữ tượng hình được làm ra là để ký âm tiếng Việt. Vì vậy, mọi chữ vuông
chỉ khi đọc và giải nghĩa bằng tiếng Việt mới chính xác!” Một sự ủng hộ vô giá!
Càng may hơn là đầu năm 2012, chúng tôi nhận được tin: Hội nghiên cứu văn hóa Lạc
Việt tỉnh Quảng Tây Trung Quốc phát hiện chữ Việt cổ khắc trên xẻng đá, giống với
chữ Giáp cốt (4)! Từ những nguồn tư liệu phong phú và vững chắc, chúng tôi
nhanh chóng hoàn thành bài viết: Chữ Việt là chủ thể tạo nên chữ viết Trung Hoa
(5)!
Như vậy, sang thế kỷ này, nhờ tiến bộ của khoa học
thế giới, nhờ tấm lòng và công sức của cộng đồng người Việt, không những chúng
ta xác định được người Việt có đa dạng di truyền cao nhất trong dân cư
châu Á, có nghĩa, Việt Nam là cái nôi của các dân tộc phương Đông mà còn
chứng minh được, tổ tiên ta để lại trên đất Trung Hoa không chỉ tiếng nói mà cả chữ
viết.
Chúng tôi hình dung quá trình hình thành tiếng nói
và chữ viết trên đất Trung Hoa như sau:
Nhiều dữ liệu khoa học cho thấy, 40.000 năm trước,
người Việt cổ đã từ Việt Nam đi lên khai phá đất Trung Hoa. Tới 4000 năm TCN,
người Việt đã xây dựng ở đây nền văn hóa nông nghiệp rực rỡ. Năm 2698 TCN, người
Mông Cổ do Hiên Viên dẫn đầu, vượt Hoàng Hà vào chiếm đất Việt, dựng vương triều
Hoàng Đế. Trong vương quốc Hoàng Đế, người Mông Cổ hòa huyết với người Việt,
sinh ra người Hoa Hạ. Người Hoa Hạ bú sữa mẹ Việt, học tiếng nói Việt. Do ngôn
ngữ Mông Cổ nghèo nên tiếng Việt thành chủ thể của tiếng nói vương triều. Cùng
với thời gian, người Hoa Hạ thay cha ông Mông Cổ lãnh đạo xã hội, đã áp đặt dân
chúng nói theo cách nói Mông Cổ (Mongol parlance: tính từ đứng trước danh từ,
hay như ta vẫn gọi làcách nói ngược.) Trên thực tế, ngôn ngữ của dân cư
vương triều Hoàng Đế là tiếng Việt được nói theo văn phạm Mông Cổ.
Sau này, nhà Tần, nhà Hán mở rộng lãnh thổ, ngôn ngữ tại các vùng bị kiêm tính
cũng chuyển hóa theo cách tương tự. Do người Việt sống trên địa bàn rộng với thổ
nhưỡng, khí hậu khác nhau, nên ngôn ngữ bị phân ly thành nhiều phương ngữ.
Trong đó, tiếng nói vùng Quảng Đông (Việt Đông), Phúc Kiến (Mân Việt) là chuẩn
mực nên được gọi là Nhã ngữ với ý nghĩa ngôn ngữ thanh nhã. Đời nhà Chu, rồi
nhà Hán, triều đình khuyến khích nói theo Nhã ngữ.
Vấn đề khác cũng cần minh định là ảnh hưởng của chữ
viết tới sự hình thành ngôn ngữ phương Đông. Chữ tượng hình được phát hiện sớm
nhất ở văn hóa Giả Hồ 9000 năm rồi ở văn hóa Bán Pha tỉnh Sơn Tây 6000 năm trước.
Khảo cổ học cũng cho thấy, khoảng 4000-6000 năm cách nay, chữ tượng hình được
khắc trên xẻng đá ở di chỉ Cảm Tang tỉnh Quảng Tây. Chữ Lạc Việt sau đó được
đưa lên đồng bằng Trong Nguồn, bây giờ là Trung Nguyên, vốn là một trung tâm lớn
của người Dương Việt, để khắc lên xương thú và yếm rùa, về sau được gọi là văn
Giáp cốt.
Chữ viết trên yếm rùa và xương thú là chữ đơn lập,
không thể ghép vần. Tiếng Việt cổ vốn đa âm nên muốn được ký âm buộc phải đơn
âm hóa. Do đó, tại trung tâm đầu não của người Việt, ít nhất là từ Quý Châu Quảng
Tây tới Hà Nam, tiếng nói chuyển dần thành đơn âm. Một vấn đề khác nảy sinh: tiếng
nói thì nhiều nhưng số chữ chế ra có hạn nên chỉ có những tiếng tiêu biểu mới
được ký tự. Do vậy, chữ tượng hình tập hợp được những tiếng nói tiêu biểu nhất
của người Việt. Đây là quá trình độc lập, diễn ra trong cộng đồng Việt mà người
Hoa Hạ từ thời Hoàng Đế tới giữa đời Thương không biết. Khi vua Bàn Canh chiếm
đất Hà Nam, lập nhà Ân (1384 TCN), mới biết chữ Giáp cốt của người Dương Việt.
Với nhà nước được tổ chức tốt, Bàn Canh đã tiếp thu và cải tiến chữ của người
Việt để ghi việc bói toán, cúng tế cùng địa lý, lịch sử (5). Trong triều đình
nhà Ân, những “họa sư”- người vẽ chữ, “bốc sư”- thày bói, người Việt, được “lưu
dụng” làm công việc này. Thay nhà Thương, nhà Chu chuyển sang viết chữ trên thẻ
tre, trên lụa, cũng sử dụng nhiều ông thầy người Việt. Nhà Tần vốn là bộ lạc
người Việt, khi dựng nước đã thể chế chữ Giáp cốt thành chữ Triện tồn tại tới
nay. Như vây, có thể nói, không chỉ sáng tạo ra chữ Giáp cốt mà người Việt còn
tích cực góp phần cải tiến, hoàn thiện chữ viết. Do đó quá trình đơn âm hóa tiếng
nói được đẩy mạnh.
Sau đời Hán, Trung Quốc loạn lạc, nhiều triệu người
thiểu số phía Tây thâm nhập, khiến cho tiếng nói bị pha tạp, theo hướng tăng cường
giọng điệu du mục. Tiếng nói của cư dân trong vương triều thay đổi, dẫn tới việc
người trong nước không hiểu được nhau. Để khắc phục, các vương triều dùng tiếng
nói của kinh đô làm chuẩn mực giao tiếp của triều đình: quan thoại ra đời. Nhà
Đường lấy tiếng nói của kinh đô Tràng An làm tiếng nói chính thức, được gọi là
Đường âm. Đường âm là tiếng Việt được người Tràng An nói thời nhà Đường. Đấy là
bộ phận tinh hoa của tiếng Việt được ký tự bằng chữ vuông. Đường âm được mang
sang dạy và giao dịch ở Việt Nam. Khi giành được quyền tự chủ, nước ta thoát
ách đô hộ của phương Bắc về chính trị, kinh tế, văn hóa. Tuy nhiên, văn tự tượng
hình vẫn là chữ viết chính thống và Đường âm được duy trì dưới tên gọi là chữ
Nho, chữ Thánh hiền. Trong khi đó, quan thoại của Trung Hoa biến cải theo sự
thay đổi của vương triều và kinh đô. Tới giữa thế kỷ trước, tiếng Bắc Kinh là
tiếng nói chính thống của Trung Hoa, chỉ được số lượng nhỏ người dùng. Nhà Mãn
Thanh rồi chính quyền Quốc dân đảng không làm nổi việc thống nhất ngôn ngữ. Chỉ
tới năm 1958, sau gần 20 năm nhà nước Trung Hoa nỗ lực thực hiện cuộc đồng hóa
khốc liệt, tiếng Bặc Kinh mới được phủ sóng trên phần lớn lãnh thổ. Tuy nhiên,
tới nay trong vùng Nam Dương Tử vẫn có khoảng 20% từ địa phương, truyền miệng
trong dân gian mà không được ký tự.
Một vấn đề từ lâu được đặt ra: chữ Nho xuất hiện ở
nước ta từ bao giờ? Chưa ai xác định được ! Chúng tôi không biết, hàng nghìn
năm trong nước Văn Lang, vùng đất bây giờ là Việt Nam, chỉ cách Cảm Tang, Quý
Châu khoảng 150 km, có sử dụng chữ tượng hình? Nhưng biết chắc, bộ lạc Thủy, di
duệ của người Lạc Việt ở Quảng Tây, từ thời Tần Hán trốn vào rừng, bị thiểu số
hóa, vẫn giữ được sách cổ ghi bằng chữ Thủy, tương tự Giáp cốt văn của tổ tiên
Bách Việt, gọi là Thủy thư (5). Nay được coi là văn tự hóa thạch sống, một bảo
vật văn hóa nhân loại. Một điều chắc chắn khác là, muộn nhất, chữ Nho có mặt ở
nước ta thời Triệu Vũ Đế. Việc khám phá lăng mộ Triệu Văn Đế ở Quảng Châu với rất
nhiều di vật khắc chữ Nho chứng tỏ điều này. Chắc chắn rằng, trong 100 năm xây
dựng và bảo vệ Nam Việt, nhà Triệu đã dùng chữ Nho trong hành chính, luật
pháp và dạy học. Vì vậy, khi sang nước ta, Mã Viện phát hiện “Luật Giao Chỉ có
tới 10 điều khác luật nhà Hán”(6). Có phần chắc là luật Việt được viết bằng chữ
Nho. Chúng tôi cũng nghĩ rằng, muộn nhất, tiếng Việt vùng đồng bằng và trung du
Bắc Bộ và Trung Bộ, được đơn âm hóa từ thời nhà Triệu. Và cùng với việc phổ biến
chữ Nho, tiếng Kinh ngày càng trở nên đơn âm.
Một câu hỏi: khi sang nước ta, người của Triệu Đà rồi
quan quân nhà Hán nói tiếng gi? Sử ký viết, “Đà giết trưởng lại người Tần rồi
đưa người của mình lên thay.” Triệu là một tiểu quốc của người Việt, nên Triệu
Đà và tâm phúc của ông là người Việt (7). Xuống Giang Nam, người của ông gặp tiếng
Việt Quảng Đông, Mân Việt, thứ tiếng Việt thanh nhã chuẩn mực. Thời Hán cũng
tương tự, vì ngoài một số không nhiều quan cao cấp người phương Bắc thì tới nước
ta phần lớn là người Giang Nam. Họ là người Việt, cho dù có nói ngược theo cách
nói Hoa Hạ thì vẫn là tiếng Việt. Vì lẽ đó, rất có thể hai bên gần như hiểu được
nhau. Vì vậy, việc học chữ Nho khá dễ dàng.
Về sau, qua mỗi thời đại, tiếng của quan quân phương
Bắc lại khác đi. Đến thời Đường, tiếng nói của kinh đô Tràng An được dùng làm
quan thoại. Thực chất, đó là tiếng Việt ở kinh đô Tràng An thời nhà Đường. Điều
này cho thấy một bộ phận tiếng Việt trải qua quá trình biến đổi dài từ đa âm,
không thanh điệu, tới đây đã thành đơn âm và sáu thanh. Có lẽ, tiếng nói của bộ
phận cư dân mà sau này là người Kinh cũng được chuyển hóa như vậy?
Sau thời Đường, nước ta độc lập, chữ Nho trở thành
quốc ngữ. Theo dòng thời cuộc, tiếng nói của người Trung Hoa thay đổi, ngày
càng xa gốc Việt. Chẳng những người Việt không hiểu tiếng người phương Bắc mà
người Trung Quốc cũng không còn nói được Đường âm. Di sản vô giá thơ Đường chỉ
còn người Việt Nam thưởng thức trong âm điệu tuyệt vời.
Từ phân tích trên chứng tỏ rằng, tiếng Việt không những
không vay mượn mà trái lại, còn là gốc gác, là mẹ đẻ của ngôn ngữ Trung Hoa.
Cái mà nay người ta quen gọi là “từ Hán Việt” là sự lầm lẫn lớn bởi chưa hiểu cội
nguồn sinh học cũng như văn hóa dân tộc, trong đó có quá trình hình thành tiếng
nói và chữ viết.
II. Vai trò của lớp từ Việt cổ trong văn hóa
dân tộc
HOÀNG NGỌC HÙNG - CHỮ VIỆT CỔ THỜI VUA HÙNG
Như đã nói ở trên, tiếng thì nhiều nhưng chữ làm ra
quá ít nên tổ tiên ta bắt buộc phải chọn thật kỹ những tiếng cần ký tự. Đó là
những tiếng có nội dung sâu sắc, hàm chứa ý nghĩa uyên thâm, mà sau này được gọi
là ngôn ngữ hàn lâm. Dù có áp dụng cách tạo từ đồng âm dị nghĩa thì cũng
còn vô số tiếng không được ký âm vì không đủ chữ. Ở phía bắc Trung Hoa, dần dần
những tiếng không được ký tự bị mai một.
Trong khi đó, ở miền nam, chúng trở thành từ địa
phương, được truyền miệng trong dân gian. Ở Việt Nam tình hình tương tự. Khi
làm chủ đất nước, người Việt thấy quá nhiều tiếng không có chữ, nên vào đời Trần
đã mô phỏng chữ Nho để tạo ra chữ Nôm. Tuy nhiên, vì nhiều lẽ, chữ Nôm không được
coi là văn tự chính thức. Mọi giao dịch hành chính đều phải dùng chữ Nho, nên
nhiều địa danh phải chuyển sang chữ Nho, việc làm bất khả kháng ngày xưa khiến
nay nhiều người bức thúc.
Một vấn đề cũng cần bàn cho ra lẽ, đó là tìm tên gọi
xác đáng cho lớp từ đặc biệt này. Thoạt kỳ thủy, nó là Đường âm. Tới lúc nào đó
được gọi là chữ Nho. Ở miền Nam cho tới năm 1975, gọi là cổ văn. Vào thập niên
1960, các học giả miền Bắc gọi là “từ Hán Việt”. Một thời gian dài nửa thế kỷ
ta chấp nhận tên gọi đó vì tưởng rằng hợp lý. Nhưng bản thân khái niệm “từ Hán
Việt” lại mâu thuẫn và vô nghĩa. Thuật ngữ này hàm ý: chữ của Hán, còn cách đọc
của Việt, ghép lại thành “từ Hán Việt.” Nhưng như phát hiện của Nguyễn Tài Cẩn,
cách đọc đó chính là tiếng nói ở kinh đô Tràng An thời nhà Đường! Như vậy, theo
cách hiểu hiện nay, cả chữ viết và cách đọc đều của người Hán, nên không thể là
“từ Hán Việt!”. Nay ta thấy không thể tiếp tục dùng thuật ngữ sai lầm cũ. Nhưng
dùng tên nào thích hợp hơn?
Đường âm là đúng nhưng bây giờ không thể trở lại tên
gọi này vì đó là sản phẩm của một thời điểm lịch sử. Tiếng Hán không đúng vì đó
không phải là tiếng nói thời nhà Hán, càng không phải tiếng nói của người Trung
Hoa hôm nay. Có lẽ tên gọi chữ Nho phù hợp hơn cả, vì nó có nghĩa là
chữ của nhà nho, sâu xa hơn, như phát hiện của triết gia Kim Định, là sản phẩm
của văn hóa Việt nho nguồn cội. Sở dĩ gọi là “từ Hán Việt” vì người ta lầm tưởng
đó là sản phẩm vừa của Hán vừa của Việt. Tuy nhiên cách hiểu như thế vừa không
chính xác vừa gây phản cảm, đè nặng lên tâm trí chúng ta một cảm giác lệ thuộc
bên ngoài. Thực chất, đó không phải “từ Hán Việt” mà là tiếng Việt cổ.
Khác với nhiều ngữ khác, tiếng cổ là tử ngữ, thì trong ngôn ngữ Việt, tiếng Việt
cổ vô cùng sống động. Lý do nó trở thành cổ ngữ là vì lịch sử dân tộc có biến động
lớn, chữ Nho bị bãi bỏ để thay bằng thứ chữ viết khác. Mấy trăm năm trước, khi
chuyển giao chữ La Tinh quốc ngữ cho chúng ta, một học giả phương Tây từng nói
đại ý: Chúng ta trao cho người Annam một thứ chữ dễ học, giúp họ nhanh
chóng bắt kịp đà văn minh. Nhưng chắc chắn nó sẽ làm cho thế hệ tương lai của họ
cắt đứt với nguồn cội. Hôm nay, lời cảnh báo đó đã trở thành hiện thực với
toàn bộ nền văn hóa Việt. Về ngôn ngữ thì đó là lớp lớp người Việt không hiểu
tiếng nói của tổ tiên, như tác giả Trần Kinh Nghị than phiền. Vì vậy, chúng tôi
cho rằng, cần nhìn nhận lại gia sản quý giá này để sử dụng tốt nhất.
III. Kết luận
Hàng ngàn năm nay do ngộ nhận nên ta cho rằng, bộ phận
tinh hoa, quan trọng nhất của tiếng Việt là đồ vay mượn! Sự lầm lẫn này đã tạo
nên nỗi đau ngàn năm khi ta vừa căm ghét một công cụ mà trong quá khứ kẻ thù
dùng để đồng hóa, nô lệ mình lại vừa không thể chối bỏ! Không thể không dùng
nhưng rồi mỗi khi dùng lại day dứt nỗi niềm cay đắng mặc cảm vay mượn!
Nay chúng ta phát hiện ra sự thật: không hề có cái gọi
là “Từ Hán Việt”! Đó chính là chữ Việt, tiếng Việt được tổ tiên ta sáng tạo
trong quá khứ. Việc khẳng định bản quyền tiếng Việt cổ là khám phá có ý nghĩa đặc
biệt, nó giúp ta tự tin, làm chủ tài sản vô giá của dân tộc. Vấn đề hiện nay là
tuyên truyền để mọi người cùng hiểu. Công việc quan trọng khác là nghiên cứu sử
dụng vốn tài sản này, làm phong phú ngôn ngữ, góp phần xây dựng văn hóa dân tộc.
Cái to nhất ngăn trở ta dám nhận lại tài sản vô giá
này là thói nô lệ, thói tự kỷ ám thị nặng nề khiến ta vô thức đẩy nhiều di sản
quý báu của tổ tiên cho người ngoài để rồi cúc cung làm chú học trò ngu ngơ, bị
đè bẹp dưới cái bóng hoang tưởng!
Một khi nhận ra chủ quyền, ta sẽ làm gì với tài sản
vô giá này?
Nhiều người đã hiểu cơ sự nên kiến nghị khôi phục việc
học chữ Nho. Đấy là việc không thể không làm. Trước hết vì giá trị lớn lao của
chữ Nho. Tính triết lý sâu xa, ý nghĩa thâm thúy của nó khác với bất cứ chữ viết
nào, giúp người học rèn trí thông minh, luyện tư duy… Chỉ điều này mới giúp
chúng ta tiếp nối với truyền thống, tránh được mối nguy mất gốc như học giả nước
ngoài cảnh báo mấy trăm năm trước. Đó là việc cần chủ trương và kế hoạch lớn.
Trước mắt, việc có thể làm ngay là, trong chương trình tiếng Việt phổ thông,
nên bổ sung một số tiết giảng tiếng Việt cổ, nhằm giải nghĩa những từ
thường dùng để học sinh hiểu và sử dụng đúng, đồng thời tập cho họ cách tra Từ
điển tiếng Việt.
Chúng tôi xin mạo muội đề nghị, cần một cuộc cách mạng
loại bỏ
thuật ngữ “từ Hán Việt” khỏi ngôn ngữ Việt để thay vào đó tên gọi
đúng: tiếng Việt cổ! Đồng thời dùng lại thuật ngữ chữ Nho để gọi
văn tự của tổ tiên mà xưa nay vẫn lầm tưởng là chữ nước ngoài.
thuật ngữ “từ Hán Việt” khỏi ngôn ngữ Việt để thay vào đó tên gọi
đúng: tiếng Việt cổ! Đồng thời dùng lại thuật ngữ chữ Nho để gọi
văn tự của tổ tiên mà xưa nay vẫn lầm tưởng là chữ nước ngoài.
#5
Madrak, 1. 12. 2013
—
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Tài Cẩn – Nguồn gốc và quá
trình hình thành cách đọc Hán Việt. NXB Đại học Quốc
gia, Hà Nội, 1979
2. Hà Văn Thùy. Hành trình tìm lại cội nguồn. NXB
Văn học, 2008.
3. Đỗ Ngọc Thành. Nhannamphi.com
4. Hà Văn Thùy. Chữ Việt chủ thể sáng tạo chữ viết
Trung Hoa http://huc.edu.vn/chi-tiet/1868/Chu-Viet-la-chu-the-sang-tao-chu-viet-Trung-Hoa.html
5. Lịch sử hình thành chữ viết Trung Hoa http://khoahocnet.com/2013/11/11/ha-van-thuy-lich-su-hinh-thanh-chu-viet-trung-hoa/
6. Hậu Hán thư- Mã Viện truyện
7. Hà Văn Thùy – Nỗi bất an của lịch sử http://trannhuong.com/tin-tuc-15551/noi-bat-an-cua-lich-su.vhtm