Có một lần nọ, ăn sáng chung ở bệnh viện với một ông bác sĩ
người Mỹ chuyên về bệnh tim mạch, khi thấy tôi rắc muối lên những múi bưởi, ông
ta trố mắt: “Anh không sợ bị cao huyết áp ư?”
Nhìn ánh mắt của người đồng nghiệp, tôi nghĩ lý do cao huyết áp
không phải là quan tâm chính, mà là chuyện ăn bưởi với muối! Tôi dụ ông ta thử,
“chàng” gật gù khen ngon, vì muối bưởi dường như ngọt hơn, bớt chua và bớt
đắng.
Trong gần 50 năm qua, các bác sĩ thường khuyên chúng ta không
nên ăn mặn, trong khi đó, các cụ từ ngàn xưa lại nói, ăn mặn cho chắc da, chắc
thịt. Thuở bé, tôi vẫn còn nhớ những nồi cá hay nồi thịt kho mặn đắng dành cho
các sản phụ nhà hàng xóm, sau khi sanh.
Những nghiên cứu cũ, hơn 100 năm trước, suy diễn, biện luận một
chiều, dựa trên những quan sát không đầy đủ, cho rằng ăn mặn có hại đến sức
khoẻ tim mạch, thật ra không đúng hẳn. Theo các nghiên cứu gần đây, ăn nhiều
muối cũng không đến nỗi tệ như người ta hằng nghĩ.
Hiện nay, chúng ta được khuyên, nên giới hạn lượng muối tiêu thụ
ở mức 6 gram mỗi ngày, tức là 2.4 gram chất sodium (natri), vào khoảng độ một
muỗng cà phê muối. Nếu bệnh nhân có bệnh cao huyết áp, bác sĩ thường khuyên nên
giảm muối xuống còn 2/3 muỗng cà phê mỗi ngày. So với chế độ ẩm thực của người
Việt, và ngay cả những thức ăn của các chủng tộc khác, giới hạn về muối nầy là
chuyện nói cho vui, vì nó đi ngược lại bản năng sinh tồn của con người nói
chung.
Từ thời cổ đại, nhất là ở những vùng đất xa biển, muối là một loại
nhu cầu quý hiếm, người ta tôn thờ nó, giết nhau cũng vì nó. Muối rất quan
trọng cho sự sống, không riêng gì cho con người mà cho cả những loài động vật.
Ở xứ Keyna, quê hương thuỷ tổ của ông Obama, những con voi thèm muối, đang đêm,
lặn lội vào hang sâu, để liếm những tinh thể muối tích tụ trên vách đá. Rồi
những con khỉ đười ươi gorillas, theo vết, ăn phân của các cô chú voi, cũng vì
muối. Ngay đến những chú khỉ nhỏ, ngồi bắt chí bắt rận cho nhau, chỉ để liếm
vào da nhau, hưởng thừa chút muối tiết ra từ mồ hôi.
Con người chúng ta, thực tế, là một bịch muối biết đi, với những
tế bào ngâm trong nước muối. Chúng ta khóc ra muối, đổ mồ hôi ra muối, khi
thiếu nguồn muối bổ sung là đời tàn. Nghiên cứu gần đây cho thấy, khi thiếu
muối, sự ham muốn về dục tính sẽ giảm đi, đàn ông dễ bị yếu sinh lý, mệt mỏi
và… xụi. Phụ nữ thiếu muối cũng giảm bớt khả năng sinh sản và ảnh hưởng đến cân
lượng của em bé.
Thiếu muối còn làm cho nhịp tim tăng, làm cho thận suy, làm cho
tuyến giáp suy nhược, làm tăng độ vô cảm với chất insulin, và làm tăng
cholesterol. Như thế, trên lý thuyết làm hại đến hệ thống tuần hoàn, tăng nguy
cơ bị bệnh tim mạch.
Chất sodium là thành phần chính trong máu và tất cả dịch thủy
trong cơ thể, vừa giữ thể tích cho máu, bảo đảm áp suất cho hệ thống tuần hoàn,
vừa duy trì các phản ứng sinh hoá cho các tế bào. Mất muối, hệ thống tuần hoàn
bị rối loạn. Riêng với hệ thần kinh, sự thay đổi nồng độ sodium qua những cái
bơm nhỏ ở tế bào thần kinh, tạo ra những tín hiệu truyền dẫn trong mạng lưới
thần kinh. Thiếu muối, hệ thống thần kinh bị tê iệt, não bộ sẽ bị sưng lên, gây
hôn mê. Trong trường hợp bị mất máu vì thương tích hay bị phỏng nặng, chúng ta
mất nước và mất muối, làm cho các cơ phận có nguy cơ sụp đổ, ngừng hoạt động.
Vì thế, khi vào nhà thương, truyền nước biển là chuyện đầu tiên.
Vậy thì, tại sao hầu hết các bác sĩ lại khuyên ta nên cử muối?
Lý do vì những suy luận cổ điển dựa trên những quan sát hạn hẹp,
một chiều, cho rằng ăn nhiều muối sẽ làm tăng huyết áp. Đã thế, để chứng minh
cho những tiền đề không đúng, những nghiên cứu lệch lạc đua nhau tìm cách chứng
minh cho một tiền đề nông cạn về cơ bản. Một vòng lẩn quẩn!
Này nhé, người ta suy luận rằng, khi chúng ta ăn nhiều muối sẽ
bị khát nước, vì thế sẽ uống nhiều nước. Nồng độ sodium từ muối tăng cao làm
cho cơ thể giữ nước lại để pha loãng bớt độ mặn của máu, do đó thể tích máu
tăng. Một khi thể tích máu tăng, sẽ làm tăng áp suất máu, đưa đến bệnh tim
mạch, tai biến não, và các nguy cơ khác.
Lý thuyết trên đây, chính tôi, cũng như hầu hết các bác sĩ đều
được dạy như thế trong những năm đầu của trường thuốc. Thoạt nghe thì rất ư là
“logic”, nhưng dần dà những sự thật quan sát được lại không chứng minh được cho
lý thuyết nầy.
Huyết áp của con người được kiểm soát bởi nhiều động cơ mà trong
đó nồng độ sodium và thể tích máu chỉ là một. Kế đến nguy cơ bị bệnh tim mạch,
truỵ tim, tai biến não lại là hệ quả của nhiều lý do khác nhau, trong đó cao
hyết áp chỉ là một trong những lý do ấy. Theo quan sát, 80% người có áp suất
bình thường, khi ăn nhiều muối, không bị tăng huyết áp. Ngay cả những người đã
bị cao huyết áp, khoảng 60% không bị ảnh hưởng vì muối.
Ở đây, nồng độ của muối, của chất sodium, cũng như huyết áp được
điều chỉnh bới trái thận. Những hormone từ tuyến thượng thận aldosterone,
angiotensin từ lá gan, và renin từ trái thận, tạo thành một hệ thống gọi là
renin–angiotensin–aldosterone system (RAAS), làm việc với nhau để kiểm soát
nồng độ muối, thể tích máu cũng như áp suất máu. Như thế người có lá gan khoẻ,
trái thận tốt, đa số sẽ đáp ứng rất nhạy bén cho nồng độ muối trong máu. Cao
huyết áp không đơn thuần vì ăn nhiều muối, mà vì hệ thống RAAS không làm việc
hữu hiệu. Lá gan yếu, thận hư thật ra lại do những lý do khác, về nếp sống, về
ẩm thực như ăn nhiều đường và tinh bột chẳng hạn.
Nói như trên đây, cũng không có nghĩa là chúng ta có thể ăn mặn
càng nhiều càng tốt, nhưng lâu lâu lỡ ăn mặn tí xíu thì cũng không hại gì, từ
trường hợp những người thuộc vào diện cao huyết áp vì “nhạy cảm với muối”, phải
cử muối vì trái thận đã suy. Trung bình, chúng ta có thể tiêu thụ muối vừa
phải, khoảng độ từ 1.5 đến 3.5 muỗng cà phê muối là vừa. Nếu thấy khát nước là
đã ăn quá mặn, không tốt cho trái thận, nên bớt ăn mặn cho lần sau. Không nên
để “đời cha ăn mặn” đến “đời con khát nước” mới cử muối thì hơi trễ!