Thứ Tư, 19 tháng 6, 2013

Tết Đoan Ngọ nhớ Khuất Nguyên



Khuất Nguyên 屈原tên Bình, biệt hiệu Linh Quân (340 TCN - 278 TCN) là một chính trị gia, một nhà thơ yêu nước nổi tiếng của Trung quốc. Ông là người trong hoàng tộc nước Sở, làm chức Tả Đồ cho Sở Hòai Vương(Tỉnh Hồ Nam)

Xuất thân từ dòng dõi vương tộc nhưng đã sa sút từ đời cha, gần hàng thứ dân. Sử gia Tư Mã Thiên nhận xét “Khuất Nguyên học rộng nhớ nhiều, sáng suốt về chính trị, thông thạo về hiến lệnh”,lại có tài văn chương. Ông sớm được vua Sở trọng dụng, cân nhắc lên hàng lương đống của triều đình (chức Tả tư đồ, dưới Lệnh doãn – Tể tướng). Đối nội, Khuất Nguyên chủ trương cải cách xã hội bằng những biện pháp nhằm hạn chế đặc quyền của bọn đại quý tộc, chủ trương “cân nhắc người hiền, trao quyền cho người có tài năng”; đối ngoại, chủ trương liên Tề chống Tần. Khuất Nguyên bị đả kích kịch liệt vì điều đó mâu thuẫn với đường lối quyền lợi của bọn đại thần.

Thuở đó, thời Chiến quốc, tình trạng xâu xé nhau giữa 6 nước Tần, Sở, Tề, Ngụy, Hàn, Yên đã đi đến chỗ quyết định. Sở từ chỗ cường thịnh đi đến chỗ bại vong, nguy cơ bị Tần thôn tính. Dao động, bất lực và ngu muội, nghe theo lời xúc xiểm của bọn nịnh thần gian tham Tử Lan, Ngận Thượng và sủng cơ Trịng Tụ bị quân thù mua chuộc mà phản bội, lại mắc mưu ly gián của bọn gián điệp Trương Nghi, Sở Hoài vương dần dần bỏ rơi Khuất Nguyên, cách chức Tả tư đồ, thậm chí còn đày ông  đi Hán Bắc (298 TrCN). Sau đó, được gọi về. Nước Sở một phen nguy ngập. Khuất Nguyên chỉ rõ địch – ta, thù-bạn, hiền tài-gian đảng cùng phương cách cứu nước, do đó nước Sở tai qua nạn khỏi. Sau khi Sở Hoài vương bỏ mạng ở đất Tần bởi tình nguyện làm con tin, Khoảnh Tương vương lên nối ngôi. Tình hình chính trị Sở càng thối nát, suy yếu. Nghe lời xúi dục của Lệnh doãn Tử Lan, Ngận Thương, Tương vương đày ông về Giang Nam. Ông qua hồ Động Đình, vượt vùng sông Nguyên, sông Tương, đến mãi tận sông Mịch La. Khi nước Sở bị Tần diệt đúng như lời tiên tri của ông, tướng Tần là Bạch Khởi công phá kinh thành Sính của Sở. Đau xót quá, Khuất Nguyên uất ức buộc đá vào cổ dìm mình xuống sông Mịch  La, mong lấy cái chết thức tỉnh triều đình và dân chúng. Đó là trưa (ngọ) ngày 5-5 âm lịch năm 278 trước Công nguyên.
Về sau, để tưởng nhớ một vị đại thần và nhà thơ yêu nước trung trinh, hàng năm cứ vào ngày 5-5-âm lịch, toàn dân Trung Quốc tổ chức  ăn tết đặt tên là Tết Đoan Ngọ để tưởng niệm Khuyết Nguyên. Ở tỉnh Hồ Nam trở thành một ngày hội thật sự : trống dong cờ mở đua thuyền vang rộn cả một quãng sông Mịch La nơi trước đây Khuất Nguyên trầm mình. Ở Việt Nam ngày đó ta cũng thờ cúng dưới cái tên Tết Đoan Ngọ, có nơi như miền Trung biến tướng thành Tết Giết Sâu Bọ.



Về thơ ca, Khuất Nguyên có Ly Tao (1) (Nỗi buồn biệt ly) một trường ca gồm 372 câu. “Cửu chương” gồm 9 bài thơ ngắn. “Cửu ca” gồm 11 bài thơ ngắn trong tập Sở Từ  (Tiếng hát nước Sở), Thiên vấn(Hỏi trời) Với Ly Tao, Thiên vấn, Sở từ… bằng thơ ca của mình “chí ông sạch nên ông hay nói đến hoa thơm cỏ lạ, tính ông liêm nên dù chết ông cũng không chịu buông lỏng. Bị ngập trong bùn lầy, ông thoát ra khỏi chỗ nhơ đục, băng mình ra ngoài đám bụi trần, không để cho nó dây bẩn…” (Tư Mã Thiên - Sử ký). Tác phẩm thơ ca của người đã đưa Khuất Nguyên lên hàng đầu những nhà thơ Trung Quốc. Thành tựu huy hoàng đó là cuộc cách tân mạnh mẽ, xác lập một cách vững vàng nghệ thuật thơ ca trác việt thời cổ đại, làm khuôn mẫu cho người đời sau.
Khuất Nguyên để lại cho đời một giai thoại thú vị về  say, đục; tỉnh , trong
Chuyện kể rằng: nghe lời dèm pha của Cận Thượng cùng lũ gian thần, Sở vương nổi giận đuổi Khuất Nguyên ra khỏi vương triều. Khuất Nguyên, quần áo xốc xếch thất thểu đi bên bờ sông, thân thể khô đét, mặt mày phờ phạc. Ông vừa đi vừa hát, than khóc cho số phận bất hạnh của nước Sở nay mai. Những lời cay đắng khóc thương này đã nẩy sinh ra tập thơ Ly Tao bất hủ.
Chợt một ông lão đánh cá trông thấy, kêu lên:
Có phải Tam lư Đại phu đó không ? Trời ơi ! Làm sao ra nông nỗi này?
Khuất Nguyên bi phẫn:
 Đời đục cả, riêng một mình ta trong; mọi người say cả, chỉ mình ta tỉnh. Ta bị đuổi chỉ vì có thể.
Lão ngư phủ bàn góp:
Thánh nhân xưa nay xử sự uyển chuyển không câu nệ, biết việc tùy thời. Có phải đời đục cả, sao ông không khuấy thêm bùn, vỗ thêm sóng cho đục ngầu một thể; loài người say cả, sao ông không ăn cả men, húp cả bã cho say nốt ? Việc gì phải lo xa, nghĩ sâu để đến nỗi bị xua đuổi, thân tàn ma dại ?
Bị xúc phạm, Khuất Nguyên cãi:
Tôi nghe mới gội đấu, tất phải chải mũ, mới tắm tất phải thay quần áo, có đâu lại chịu đem cái thân trong sạch để cho vật dơ bẩn dính vào mình, chẳng thà nhày xuống sông Tương (1) vùi xác trong bụng cá, cớ chi đang trắng lôm lốp để vấy phải bùn nhơ ?
Ông lão đánh cá nghe xong tủm tỉm cười, quay thuyền chèo đi, hát bâng quơ:
Sông Tuơng nước chảy trong veo
Thì ta đem giặt sạch cái lèo mũ ta
Sông Tương nước đục phù sa
Thời ta lội xuống để mà rửa chân.
Hát xong, chèo đò đi thẳng, không ngoái cổ lại. Khuất nguyên lòng đầy cay đắng đứng sững nhìn theo (2)
*
Sau cái chết bi tráng của Khuất Nguyên, Tống Ngọc ,nhà thơ đương thời làm bài phú nổi tiếng “Chiêu hồn”gọi hồn thầy mình hãy về dương gian đừng bơ vơ lạc lõng nơi đầu sông ngọn sóng. Về sau, trên 2.000 năm khi đi sứ qua Mịch La, sứ thần nhà thơ Nguyễn Du đã viết bài “Phản chiêu hồn” (Chống lại bài chiêu hồn) của Tống Ngọc. Tống Ngọc chiêu hồn Khuất Nguyên về, Nguyễn Du khuyến đừng về. Vì sao ? Bởi người đời sau ai ai cũng đều là Thượng Quan Ngận Thương, mặt đất đâu đâu cũng đều là sông Mịch La đầy cá rồng, thú dữ. Bọn  gian thần đứng ngồi như các bậc hiền giả, lên xe xuống ngựa, nói năng toàn là giọng đạo đức ông Cao ông Quỳ, che giấu vuốt nanh cùng nọc độc, nhưngg nhai xé thịt người ngọt xớt như đường. Hồn mà về chẳng có gì tốt đẹp nơi đây cả, cá sấu thuồng luồng không xơi thì lũ người thú kia cũng xâu xé…Nguyễn Du đã nhìn thấu cõi đời nhơ bẩn xấu xa, thối nát đâu đâu thời nào cũng đầy rẫy bọn tham quan ô lại độc ác, phản nước hại dân. Bài thơ là một kiệt tác giàu chất hiện thực phê phán và đầy tính nhân văn.
Nguyên tác và bản dịch bài thơ:

 反 招 魂
Phản Chiêu hồn
Chống lại bài Chiêu hồn
魂 兮 魂 兮 魂 不 歸 
Hồn hề! Hồn hề! hồn bất qui? 
Hồn ơi! Sao chẳng trở về?
東 西 南 北 無 所 依 
Đông tây nam bắc vô sở y. 
Ðông tây nam bắc chở che chốn nào?
上 天 下 地 皆 不 可 
Thượng thiên hạ địa giai bất khả, 
Dù đất thấp trời cao chẳng ổn,
鄢 郢 城 中 來 何 為 
Yên, Dĩnh[1] thành trung lai hà vi ?
Yên, Dĩnh đành lạc lõng như nhau.
城 郭 猶 是 人 民 非 
Thành quách do thị, nhân dân phi, 
Thành đây, dân cũ còn đâu
塵 埃 滾 滾 汙 人 衣 
Trần ai cổn cổn ô nhân y. 
Bụi đời mù mịt dơ màu áo xưa
出 者 驅 車 入 踞 坐 
Xuất giả khu xa, nhập cứ tọa
Ra xe đưa, vào ngồi chễm chệ,
坐 談 立 議 皆 皋 夔 
Tọa đàm lập nghị giai Cao, Quỳ[2]
Bàn bạc xem ra vẻ hiền thần.
不 露 爪 牙 與 角 毒 
Bất lộ trảo nha dữ giác độc, 
Vuốt nanh, nọc độc chứa ngầm,
咬 嚼 人 肉 甘 如 飴 
Giảo tước nhân nhục cam như di! 
Thịt người cắn xé như đường nuốt ngon!
君 不 見 湖 南 數 百 州
Quân bất kiến Hồ Nam sổ bách châu, 
Hồ Nam kia thấy không trăm xóm,
只 有 瘦 瘠 無 充 肥 
Chỉ hữu sấu tích, vô sung phì.
Toàn những người gầy ốm xanh xao.
魂 兮 魂 兮 率 此 道 
Hồn hề! Hồn hề! suất thử đạo 
Hồn ơi! Lối ấy theo nhau,
三 皇 之 後 非 其 時 
Tam Hoàng [3] chi hậu phi kỳ thì. 
Ðời Tam Hoàng trước lấy đâu hợp thời.
早 斂 精 神 返 太 極 
Tảo liễm tinh thần phản thái cực, 
Thu tinh thần về nơi Thái cực,
慎 勿 再 返 令 人 嗤 
Thận vật tái phản lịnh nhân xi,
Chớ về đây người chực mỉa mai.
後 世 人 人 皆 上 官 
Hậu thế nhân nhân giai Thượng Quan 
Thượng quan thời buổi ai ai,
大 地 處 處 皆 汨 羅 
Đại địa xứ xứ giai Mịch La[4]
Khắp trên đất rộng sông dài: Mịch La
魚 龍 不 食 豺 虎 食 
Ngư long bất thực, sài hổ thực
Cá rồng nuốt, sói hùm tha,
魂 兮 魂 兮 奈 魂 何
Hồn hề! Hồn hề! nại hồn hà?
Hồn ơi! Hồn hỡi! Hồn mà làm sao?



[1] Yên thuộc đất Sở, Dĩnh (hay Sính) là kinh đô của Sở, nay thuộc tỉnh Hồ Bắc
[2] Cao, Quỳ là hai vị quan giỏi đời Ngu Thuấn.
[3] Có thuyết cho đây là ba vị vua Phục HyThần Nông và Hoàng Đế thời cổ đại.
[4] Mịch La là khúc sông hợp lưu của hai sông Mịch và La, nay ở phía bắc huyện Tương Âm, tỉnh Hồ Nam, sau còn gọi là sông Khuất Đàm vì Khuất Nguyên tự trầm ở đấy.


Theo lịch sử, những người yêu nước vĩ đại như Khuất Nguyên luôn được nhân loại hai ngàn ba trăm năm nay tưởng nhớ, biết ơn và bọn gian thần Ngận Thượng, Trịnh Tụ, Tử Lan bán nước cầu vinh, đều bị nhân dân muôn đời nguyền rủa.
Thương Dân Dân đội lên thờ,
Hại Dân Dân đái ngập mồ cho coi.                                                            
               * Vào ngày mùng 5 tháng 5 người dân quê miền Nam còn có phong tục: nếu trồng cây ăn trái đã lâu mà chưa cho trái,thì 1 người leo lên ẩn trốn trên cây,1người đứng bên dưới cầm dao hay rựa vùa giả bộ chặt vào cây vừa lớn tiếng
  - mày không có trái thì tao chặt (nói 3 lần)
khi ấy người ẩn trốn trên cây van xin
     - đừng chặt đừng chặt tôi sẻ có trái (cũng lập lại 3 lần)
tôi không biết phươngpháp này hiệu quả không mà cho đến bây giờ tôi thấy vẫn còn nhiều gia đình áp dụng                                                                                                
12/6/2013
Lyslongdien sưu tầm và hiệu đính