Thứ Sáu, 30 tháng 8, 2013

Tôi đi học

Theo lời yêu cầu của đọc giả, ban biên tập thêm bài tân cổ giao duyên" Dưới cổng trường làng" nơi cuối bàị
Garden Grove ngày 3 tháng 10 năm 2013


Tôi đi học


Trường làng tôi do Thanh Trúc hát

Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường.
Tôi không thể nào quên được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng.
Những ý tưởng ấy tôi chưa lần nào ghi lên giấy, vì hồi ấy tôi không biết ghi và ngày nay tôi không nhớ hết. Nhưng mỗi lần thấy mấy em nhỏ rụt rè núp dưới nón mẹ lần đầu tiên đến trường, lòng tôi lại tưng bừng rộn rã.
Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học.
Tôi không lội qua sông thả diều như thằng Quý và không ra đồng nô hò như thằng Sơn nữa.
Trong chiếc áo vải dù đen dài tôi cảm thấy mình trang trọng và đứng đắn.
Dọc đường tôi thấy mấy cậu nhỏ trạc bằng tôi, áo quần tươm tất, nhí nhảnh gọi tên nhau hay trao sách vở cho nhau xem mà tôi thèm. Hai quyển vở mới đang ở trên tay tôi đã bắt đầu thấy nặng. Tôi bặm tay ghì thật chặt, nhưng một quyển vở cũng chì ra và chênh đầu chúi xuống đất. Tôi xóc lên và nắm lại cẩn thận. Mấy cậu đi trước ôm sách vở thiệt nhiều lại kèm cả bút thước nữa. Nhưng mấy cậu không để lộ vẻ khó khăn gì hết.
Tôi muốn thử sức mình nên nhìn mẹ tôi:
- Mẹ đưa bút thước cho con cầm.
Mẹ tôi cúi đầu nhìn tôi với cặp mắt thật âu yếm:
- Thôi để mẹ nắm cũng được.
Tôi có ngay cái ý kiến vừa non nớt vừa ngây thơ này: chắc chỉ người thạo mới cầm nổi bút thước.
Ý nghĩ thoáng qua trong trí tôi nhẹ nhàng như một làn mây lướt ngang trên ngọn núi.
Trước sân trường làng Mỹ Lý đầy đặc cả người. Người nào áo quần cũng sạch sẽ, gương mặt cũng vui tươi và sáng sủa.
Trước đó mấy hôm, lúc đi ngang làng Hòa An bẫy chim quyên với thằng Minh, tôi có ghé trường một lần.
Lần ấy trường đối với tôi là một nơi xa lạ. Tôi đi chung quanh các lớp để nhìn qua cửa kính mấy bản đồ treo trên tường. Tôi không có cảm tưởng gì khác là nhà trường cao ráo sạch sẽ hơn các nhà trong làng.
Nhưng lần này lại khác. Trước mặt tôi, trường Mỹ Lý vừa xinh xắn vừa oai nghiêm như cái đình Hòa Ấp. Sân nó rộng, mình nó cao hơn những buổi trưa hè đầy vắng lặng. Lòng tôi đâm ra lo sợ vẩn vơ.
Cũng như tôi, mấy cậu học trò mới bở ngỡ đứng nép bên người thân, chỉ dám nhìn một nữa hay dám đi từng bước nhẹ. Họ như con chim con đứng trên bờ tổ, nhìn quãng trời rộng muốn bay, nhưng còn ngập ngừng e sợ. Họ thèm vụng và ước ao thầm được như những học trò cũ, biết lớp, biết thầy để khỏi phải rụt rè trong cảnh lạ.
Sau một hồi trống thúc vang dội cả lòng tôi, mấy người học trò cũ đến sắp hàng dưới hiên rồi đi vào lớp. Chung quanh những cậu bé vụng về lúng túng như tôi cả. Các cậu không đi. Các cậu chỉ theo sức mạnh kéo dìu các cậu tới trước. Nói các cậu không đứng lại càng đúng hơn nữa. Vì hai chân các cậu cứ dềnh dàng mãi. Hết co lên một chân, các cậu lại duỗi mạnh như đá một quả banh tưởng tượng. Chính lúc này toàn thân các cậu cũng đang run run theo nhịp bước rộn ràng trong các lớp.
Ông đốc trường Mỹ Lý cho gọi mấy cậu học trò mới đứng lên trước lớp ba. Trường làng nhỏ nên không có phòng riêng của ông đốc. Trong lúc ông đọc tên từng người, tôi cảm thấy như quả tim tôi ngừng đập. Tôi quên cả mẹ tôi đang đứng sau tôi. Nghe gọi đến tên, tôi tự nhiên giật mình và lúng túng. Sau khi đọc xong mấy mươi tên đã viết sẵn trên mảnh giấy lớn, ông đốc nhìn chúng tôi nói sẽ:
- Thế là các em đã vào lớp năm. Các em phải cố gắng học để thầy mẹ được vui lòng, và để thầy dạy chúng em được sung sướng. Các em đã nghe chưa? (Các em đều nghe nhưng không em nào dám trả lời. Cũng may đã có tiếng dạ rang của phụ huynh đáp lại).
Ông đốc nhìn chúng tôi với cặp mắt hiền từ và cảm động. Mấy cậu học trò lớp ba cũng đua nhau quay đầu nhìn ra. Và ngoài đường cũng có mấy người đứng dừng lại để nhìn vào. Trong những phút giây này chúng tôi được người ta ngắm nhìn nhiều hơn hết. Vì vậy đã lúng túng chúng tôi càng lúng túng hơn.
Ông đốc lấy cặp kính trắng xuống rồi nói:
- Thôi, các em đứng đây sắp hàng để vào lớp học.
Tôi cảm thấy sau lưng tôi có một bàn tay dịu dàng đẩy tôi tới trước. Nhưng người tôi lúc ấy tự nhiên thấy nặng nề một cách lạ. Không giữ được chéo áo hay cánh tay của người thân, vài ba cậu đã từ từ bước lên đứng dưới hiên lớp. Các cậu lủng lẻo nhìn ra sân, nơi mà những người thân đang nhìn các cậu với cặp mắt lưu luyến. Một cậu đứng đầu ôm mặt khóc. Tôi bất giác quay lưng lại rồi dúi đầu vào lòng mẹ tôi nức nở khóc theo. Tôi nghe sau lưng tôi, trong đám học trò mới, vài tiếng thút thít đang ngập ngừng trong cổ. Một bàn tay quen nhẹ vuốt mái tóc tôi.
Ông đốc nhẫn nại chờ chúng tôi.
- Các em đừng khóc. Trưa này các em được về nhà cơ mà. Và ngày mai các em lại được nghỉ cả ngày nữa.
Sau khi thấy hai mươi tám cậu học trò sắp hàng đều đặn dưới hiên trường, ông đốc liền ra dấu cho chúng tôi vào lớp năm. Một thầy trẻ tuổi, gương mặt hiền từ, đang đón chúng tôi vào cửa lớp. Trong thời thơ ấu tôi chưa bao giờ xa mẹ tôi như lần này. Tôi cũng lấy làm lạ vì có nhũng hôm đi chơi suốt cả ngày với chúng bạn ở đồng làng Lệ Xá, lòng tôi vẫn không cảm thấy xa nhà hay xa mẹ tôi chút nào hết.
Một mùi hương lạ xông lên trong lớp. Trông hình gì treo trên tường tôi cũng thấy lạ và hay hay. Tôi nhìn bàn ghế chỗ tôi ngồi rất cẩn thận rồi tự nhiên nhận là vật riêng của mình. Tôi nhìn người bạn tí hon ngồi bên tôi, một người bạn tôi chưa hề biết, nhưng lòng tôi vẫn không cảm thấy sự xa lạ chút nào. Sự quyến luyến ấy tự nhiên và bất ngờ quá đến tôi cũng không dám tin là có thật. Một con chim con liệng đến đứng trên bờ cửa sổ, hót mấy tiếng rụt rè rồi vỗ cánh bay cao.
Tôi đưa mắt thèm thuồng nhìn theo cánh chim. Một kỷ niệm cũ đi bẫy chim giữa cánh đồng lúa bay trên bờ sông Viêm sống lại đầy dẫy trong trí tôi.
Nhưng những tiếng phấn của thầy tôi gạch mạnh trên bảng đen đã đưa tôi về cảnh thật. Tôi vòng tay lên bàn chăm chỉ nhìn thầy viết và lẩm bẩm đọc:
          Bài tập viết: Tôi đi học!

[Rút từ tập truyện ngắn QUÊ MẸ, 1941.]

Đây là bút tích của Thanh Tịnh:



Tân cổ giao duyên "Dưới cổng trường làng" do Hữu Phước và Hương Lan ca:


Thứ Năm, 29 tháng 8, 2013

Yêu cầu hình ảnh và danh sách

Ban biên tập đề nghị các bạn cung cấp danh sách, hình ảnh các khoá, các lớp cựu học sinh Trường Trung học Đất Đỏ  Phước Tuy. Ban biên tập sẽ post lên trang blog để chúng ta cùng xem và nhớ về những kỷ niệm thân yêu. Các bạn đã theo học tại trường, dù chỉ 1 ngày,1 tháng hay 1năm, đang sống Việt Nam hay hải ngoại đều là học sinh Trường Trung Học Đất Đỏ.Chúng ta cùng chung tay góp sức khơi dậy ngọn lửa,niềm tin và những ước mơ  thời áo trắng,nhớ... để tiếc nuối,để thương yêu và cảm ơn những gì cuộc đời đã cho chúng ta .

Thứ Ba, 20 tháng 8, 2013

Rằm tháng 7 xá tội vong nhân



                            Rằm tháng 7 xá tội vong nhân
    Mổi năm ,cứ đến tháng 7 những người phật tử nô nức với Lễ Vu Lan ,noi gương Ngài Mục kiền Liên cúng dường Tam Bảo cầu nguyện cho 7 đời cha mẹ ,cầu nguyện cho Cửu huyền thất tổ vãng sanh về cực lạc thóat khỏi Tam đồ ác đạo
  Vu Lan được hiểu là báo hiếu,là một trong những ngày lễ chính của Phật giáo,Lễ này trùng với Tết Trung nguyên của người Hán,và trùng với ngày rằm tháng 7 ,Ngày Xá tội vong nhân của phong tục Á Đông,theo tín ngưỡng dân gian là ngày mở cửa ngục, ân xá cho vong nhân ,nên có lễ cúng cô hồn (các vong linh cô đơn không có thân nhân thờ cúng).
  Hôm nay vào dịp Lễ Vu Lan tôi muốn kể với các bạn tục Cúng thí cô hồn ở quê tôi và đó cũng là  những kỷ niệm khó quên của chị em chúng tôi
  Mổi năm đến Rằm tháng 7, quê tôi có tục cúng thí cô hồn,lễ cúng được tổ chức ở chùa làng (chùa Long Bàng),chùa làm chay suốt 3 ngày 3 đêm ,xem như 1 lễ hội của làng tôi ,già trẻ gái trai đều ít nhất 1 lần đến chùa tham dự ,cầu siêu cho các vong linh đã khuất ,cầu an cho những người còn tại thế,, đến đêm thứ 3 là đêm cuối cùng  mới là đêm lễ chính thức,mọi người đều cố gắng đến chùa sớm,nhất là trẻ con và trai tráng, chọn cho mình một chổ đứng thích hợp để dể dàng cướp “Cổ”khi vị Thầy Cả thực hiện xong nghi thức cúng “chẩn tế”và có hiệu lệnh “xô giàng”.  Ngày xưa, khi tôi khỏang 7-8 tuổi( mổi khi nhắc về chuyện củ chúng tôi thường dùng hai từ ngày xưa như kể chuyện cổ tích),tôi đã được cha mẹ cho phép cùng các bạn trang lứa tham gia Lễ cúng này ,cho đến khi tôi lớn hơn biết e thẹn ,biết mắc cở thì tôi v ẩn tham dự nhưng chỉ là kẻ đứng bên lề mà xem
  Chùa làng tôi được xây dựng khỏang cuối thế kỷ 18,là ngôi Chùa cổ xưa mang đậm nét huyền bí ,chỉ có những ngày Rằm hay mùng Một khi Chùa có tổ chức cúng chúng tôi mới dám đến dù chúng tôi là những đứa trẻ nghịch ngượm trong làng,cũng chưa bao giờ dám đến chùa phá phách, nhất là khi có việc cần thiết phải đi ngang qua Chùa thì chúng tôi chỉ cắm đầu cắm cổ mà chạy chứ chẳng dám nhìn trước ngó sau ,chỉ vì trước Chùa có một cái lầu gổ cao thờ Ông Tiêu mặt mày dử tợn,mắt trợn gần như lồi hẳn ra ngoài,tay cầm gươm giáo lại thêm cái lưởi thật dài đỏ chót như máu thè ra bên ngoài,trời đất ơi nhất là trưa nắng mà nhìn thấy Ông thì chỉ có nước vắt giò lên cổ mà chạy.
  Tôi không biết phong tục cúng “Chẩn tế xô giàng” có từ bao giờ ,mà cứ mổi năm đến chiều Rằm tháng 7 là chúng tôi  rủ nhau chen lấn để mong cướp được món gì đó từ những chiếc “Cổ”.”Cổ” được dân trong làng mang đến cúng ,có người làm Cổ Xoài ( người ta chặt một cành xòai đầy lá và dùng trứng vịt đã luộc chín sơn xanh hoặc vàng rồi dùng chỉ xỏ qua treo lủng lẳng trên cành xoài tương trưng cho các quả xòai,thường thường mổi “Cổ xòai”có khỏang 100-200 quả),người thì làm Cổ bánh hay Cổ kẹo(mổi chiếc Cổ được làm bằng tre,hình tháp 4 mặt ,bên ngoài dán giấy cho kín,bánh hay kẹo được dán dính vào ,có người thì làm Cổ Tiền ,hay Cổ gạo,bánh mì,Cổ đường vv…vv ai muốn cúng Cổ phải báo trước với ban tổ chức ,họ sẻ cho đoàn Lân đến tận nhà gia chủ làm lể rước Cổ về Chùa, đưa lên gát Ông Tiêu chờ khi cúng Lễ Chẩn Tế xong mới quăng xuống cho đám con nít chúng tôi tranh nhau giựt lấy( xem như cúng cho các cô hồn),thường thường mổi năm có đến 40-50 Cổ,cũng có nhiều lần khi vị Thầy Cả chưa thực hiện xong nghi thức cúng thì đám thanh niên du côn đã leo lên dành Cổ khiên đi ,nhiều khi họ còn thách thức nhau xem ai đoạt được những Cổ lớn có giá trị mới là kẻ “anh hùng”.Nghi thức cúng Chẩn Tế cũng rất phức tạp ,vị Thầy Cả ngồi Đàn phải được lựa chọ rất kỷ (nếu non tay ấn sẻ bị cô hồn vật chết và năm ấy trong làng sẻ có nhiều tai ương xảy ra ,tôi không biết độ chính xác như thế nào chỉ nghe những người lớn kể lại với niềm tin tuyệt đối), ông mặc trang phục giống như Ngài Địa Tạng ,ngồi trên 1 cái Đài cao,mắt nhắm nghiền, miệng niệm chú tay bắt ấn như nghệ sỉ múa ,xung quanh có những thầy cúng đi thành  vòng tròn, tay thì hiệp chưởng,  miệng cũng niệm chú ,thời cúng càng lâu tiếng niệm chú càng nhanh các vị sư cũng phải đi nhanh gần như chạy( gọi là chạy đàn)khỏang 3 giờ mới xong thời cúng các vị sư rời khỏi đài chỉ còn Thầy Cả đứng trên Đài làm cho xong công việc cuối cùng.Những đồng xu,những tờ giấy hồng điều cắt dài(tượng trưng cho lưởi Ông Tiêu) được Thầy cả đứng trên Đài cao rải khắp 4 hướng ,mọi người cả người lớn lẩn trẻ con thay nhau dành lấy(tương truyền những vật này cho trẻ con đeo vào cổ không sợ tà ma bệnh tật),tiếp đến là phần quan trọng nhất buổi lễ “Xô Giàng “ vị Thầy Cả miệng niệm chú tay nhấc những chiếc Cổ quăng xuống bên dưới (cho Cô Hồn ăn)từ đây sự huyên náo lên cao vì những tiếng hò hét tranh giành,bọn nhóc con chúng tôi cũng không kém các bậc đàn anh đàn chị, nhưng chiến lợi phẩm của chúng tôi chỉ là lượm mót nhưng gì rơi rớt dưới đất,khi buổi cúng hoàn tất thì sân chùa là một bãi chiến trường rác,thức ăn vương vãi bể nát,gạo đường bánh trái pha lẩn cát đá, những chiếc Cổ bánh xinh đẹp giờ chỉ là những thanh tre gảy (có nhiều khi Thầy Cả còn bị đám người dành Cổ xô té mang thương tích)
Với chị em chúng tôi ,ngày rằm tháng 7 là ngày rất khó quên ,một kỷ niệm thật vui mổi khi có dịp gặp nhau chúng tôi hay nhắc để mà cười.Năm ấy tôi 10 tuổi học lớp nhứt ,lưng thì cỏng thằng em út dẩn theo 3 đứa em ,chị em chúng tôi đi từ chợ về nhà (khỏang 300m)vì  từ chợ về nhà tôi có 2 đường ,1 đường lô lớn xe cộ nhiều nên chúng tôi thường đi đường tắt,vừa gần hơn ,vừa tránh xe và chủ yếu chúng tôi đi vòng vòng trong xóm ngang qua những nhà làm kẹo đậu phộng hay mức dừa,mức chùm ruột(xóm này còn có tên là xóm kẹo)các bạn biết để làm gì không : để xin những miếng kẹo đậu phộng vụn,hay những miếng mức bị cháy(bây giờ tôi vẩn còn nhớ cảm giác khi ăn những miếng kẹo hay mức mới ra lò còn nóng hổi vừa thổi vừa ăn,cái nóng của đường muốn phỏng cả miệng,cái béo của đậu phộng,cái ngọt của miếng mức dù cháy mà ngon làm sao ),tôi chỉ dẩn các em đi như thói quen ,chứ tôi không để ý hôm ấy là ngày Rằm tháng 7,bến xe khách có tổ chức cúng thí Cô hồn,theo tục thì ngày rằm tháng 7 ngoài Chùa làng tổ chức cúng thí Chẩn tế thì Nghiệp Đoàn xe đò cũng tổ chức cúng tương tự ,nhưng thay vì Chùa cúng chay thì Nghiệp Đòan xe cúng heo quay,rượu thịt ,khi tôi dẩn các em đến bến xe thấy mọi người đang làm lể cúng , đứng xem một lúc thì chúng tôi tiếp tục đi về nhà ,nhưng khi ra phía sau trại cúng chúng tôi phát hiện có 1 trại nhỏ , ôi chao các Cổ bánh, có hơn 40 cổ sắp xếp thứ tự (chờ khi cúng xong khỏang 2 giờ mới xô giàng) mà cổ nào cũng đầy bánh kẹo ,hấp dẩn quá ,bọn nó đứng đó như khiêu khích chị em chúng tôi,nhìn xung quanh thì mọi người đang tập trung cúng và ăn uống bên trại lớn , ở đây không có người canh giử ,chị em tôi tổ chức một màn” cướp Cổ” táo bạo ,sau khi lựa chọn chiếc Cổ kẹo nhiều nhất và ngon nhất ,tôi phân công, thằng em kế(8tuổi) và cô em gái (6 tuổi) có bổn phận khiên Cổ chạy trước, còn tôi cõng thằng út và dẩn con nhỏ em 4 tuổi chạy sau,lần đầu tiên chúng tôi ra tay mà hành công ngoài dự tính ,chạy một hơi về đến cổng sau nhà mà không một ai phát hiện, xem như chiến thắng của chúng tôi thật huy hoàng,sau khi nghỉ mệt ,thở cho lại sức ,chúng tôi cười vui reo hò trong chiến thắng,chúng tôi chia nhau chiến lơi phẩm ,các bạn biết không ,những viên kẹo thơm ,kẹo dừa ,kẹo chuối vv…vv kẹo nào cũng ngon ,chúng tôi được một bửa nhai kẹo rất ngon và “đã đời” (mà không nghỉ đến hậu quả),nhưng rồi tận hưởng chiến thắng chỉ 1 ngày ,hôm sau thằng em út tôi lại kể cho mẹ tôi nghe thế là các bạn biết hậu quả rồi chứ ,tôi và 2 đưá em đồng phạm bị một trận đòn nhớ đời (nhớ cho tới bây giờ luôn),và cũng từ đó thằng em út tôi có luôn biệt danh “Thừa tướng đôn”                                                                                                                                  Mùa Vu Lan 2013
                                                                                                                                               Thiếu Khanh

                                                                 

Chủ Nhật, 18 tháng 8, 2013

Hình bóng quê nhà

Ò ó ò..o…o…o!
Tiếng gà gáy vang lên từ phía hông nhà và hàng xóm. Tôi giật mình tỉnh giấc và bật ngồi dậy như cái lò xo. Con mắt còn lim dim trong cơn say ngủ, tôi mơ màng không biết mình ở đâu, sao lại có tiếng gà gáy. Tôi ngơ ngác nhìn xung quanh, tôi đang ở đâu mà lại có tiếng gà gáy vì nơi tôi đang cư ngụ ở Virginia, USA, luật pháp cấm nuôi gà trống. Tiếng gà nghe sao quá quen thuộc, báo hiệu canh 5 rồi. Tôi dụi mắt vài lần rồi mới nhớ: tôi đang ở tại nhà ba mẹ tôi, một vùng quê yên bình như cái tên của nó, làng An tịnh.
Đêm nay là đêm đầu tiên, sau hơn 40 năm, tôi ngủ ở nơi tôi sinh ra và lớn lên. Tôi vội bước ra sân, hít thở không khí trong lành của vùng quê yên tĩnh. Nhìn xung quanh, tất cả đều mới với tôi. Ngôi nhà 3 gian, 2 chái ngày xưa bị thiêu hủy trong thời chiến tranh nay được anh tôi xây dựng lại.

Cảnh cũ cũng chẳng còn, người xưa cũng khuất bóng. Ngày tôi xuống thuyền lìa xứ theo diện xuất khẩu người Hoa năm 1979, ba tôi vẫn còn khỏe mạnh; hôm nay tôi trở về chỉ còn nắm mộ vô tri. Việc đầu tiên của tôi là thăm mộ ông bà, mộ cha mẹ và mộ anh Bảy tôi. Số phận tôi rất hẩm hiu, dường như là bất hiếu: tôi không được quanh quẩn bên cha mẹ trong giây phúc lâm chung. Mẹ tôi mất trong thời chiến nên tôi không hề hay biết và cũng không thể về thọ tang; lúc đó tôi chưa tròn 18 tuổi. Khi ba tôi qua đời, tôi ở nơi xứ người, tôi cũng không được chít lên đầu vành khăn trắng. Quỳ bên cạnh mộ ba má, tôi không kìm được những giọt lệ nóng bỏng. Bây giờ mộ ba má tôi đã được trùng tu, nhìn khang trang hơn so với những hình cháu tôi email trong những năm về trước nhưng sao trong tôi vẫn còn ray rức. Điều làm tôi buồn nhất là mộ anh 7 tôi, 1 kỹ sư công chánh, tốt nghiệp trường Vỏ Bị Quốc Gia Đà lạt hệ 4 năm, chưa kịp lập gia đình. Anh 7 nằm bên cạnh ông sơ trong nghĩa trang của làng, trông hiu quạnh vô cùng. Tôi ôm chầm mộ bia thì thầm “chỉ vài tháng nữa thôi, anh sẽ về gần ba má rồi, anh không còn bơ vơ cô độc như thế này nữa!”



   Anh 7 và tôi là 2 anh em gần gũi nhất về mọi phương diện. Anh tôi đã hy sinh cho tham vọng của 1 lũ tham quan ô lại, lén lút sát hại anh tôi tại hậu cứ của sư đoàn 25 ở Bến Cát, Bình Dương vào ngày sinh nhật thứ 24 của tôi. Sự ra đi của anh để lại 1 niềm đau khổ cho vị hôn thê, sự mất mát lớn của gia đình và sự vắng bóng của 1 sĩ quan liêm khiết, sẵn sàng loại bỏ bọn tham ô.
Sau khi thăm viếng nghĩa trang, tôi về lại nhà và đánh 1 vòng khu đất của gia đình. Tôi bắt đầu đi từ đầu ngõ dưới hàng tầm vong cho đến nơi tận hàng rào sau nhà anh thứ 6. Mọi cảnh đều quá xa lạ! Tôi nhớ lại thời thơ ấu.  Đứng trước hiên nhà chú út, tôi hồi tưởng lại nơi đây là ngôi nhà của nội, ngôi nhà vách gỗ mái ngói âm dương, đây là thửa ruộng mà tôi thường câu ếch sau cơn mưa, kia là vườn trầu cau mà mỗi ngày đi học về tôi có nhiệm vụ phải xách nước tưới. Nhiều hôm mê chơi hay lười biếng tưới không đủ nước bị mẹ bắt được, thế là 1 phen bị roi mây quất đít. Tuy nhiên chứng nào tật nấy, tánh ham chơi của trẻ con cũng không thể nào bỏ được. Thời đó chưa có máy bơm nước nhưng các anh tôi cũng nghĩ ra phương tiện để không phí sức khi kéo nước. Anh tôi tạo ra cây cần vọt[1] để kéo nước. Ngày nay nói đến cái cần vọt nhiều trẻ em ở quê tôi cũng không hình dung được, tất cả đều thay bằng máy bơm nước. Nội tôi rất nghiêm khắc với con cháu luôn dùng nguyên tắc “ thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi!” Tháng 8 năm 1972 khi tôi tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Sài gòn (ĐHSPSG), tôi chọn vềTrường Trung học công lập Đất Đỏ, tỉnh Phước tuy, nơi vừa trải qua mùa hè đỏ lửa, tất cả đều đổ nát. Tôi không nghe lời nội vì lúc ấy tôi có nhiều điều kiện để dạy những trường nơi thành phố lớn, hay những nơi không có dấu ấn chiến tranh. Dượng tôi là nhân viên cao cấp bộ giáo dục, chú tôi là Tỉnh trưởng tỉnh Vĩnh Bình, anh tôi cũng là sĩ quan cao cấp v..v.. Nói chung, tôi có nhiều cơ hội để trở thành một thứ công tử bột, nhưng không hiểu sao tôi không quan tâm những ưu đãi ấy. Cho nên dù bà nội tôi có giận, bà út tôi có từ, ba tôi có can ngăn, tôi cũng nhất quyết đến miền quê hẻo lánh. Lúc ấy tôi không nghỉ đến những  nguy hiểm tôi thể phải gánh lấy, tôi chỉ biết vùng quê Đất Đỏ cũng giống như quê tôi, nóng bỏng không khí chiến tranh, và học sinh nơi đó cần giúp đỡ. Hôm nay ngồi viết những dòng chữ này tôi vẫn không ân hận về sự chọn lựa của mình.
Những cây mít, cây xoài, cây bưởi, vườn tiêu, vuờn trầu, vườn trúc cũng theo nội và cha mẹ tôi tàn lụn.
 




Dây trầu
                                                              Cây cau



                                                          Dây tiêu

 Mọi sự đều thay đổi theo thời gian!  Khu đất của nội tôi giờ cũng được phân tán mỏng: ba tôi và các chú tôi mỗi người 1 phần. Ba tôi mất để lại cho anh em tôi, các chú tôi mất để lại cho con. Người xưa, cảnh cũ cũng mất dần theo thời gian. Tôi cảm thấy như mất đi cái gì thiêng liêng vô giá!
     Những con đường đất ngày xưa đã được mở rộng và tráng nhựa.  Những ngôi nhà tranh vách đất cũng không còn và ngôi trường với mái ngói mà ba tôi dày công xây dựng cho làng An Tịnh nay được thay bằng những dãy lầu cao vòi vọi. Trong khi mọi thứ ở đây thay đổi theo thời gian, phù hợp với cuộc sống mới thì những hàng tre chót vót, những vườn trúc xanh rì, những cánh đồng bát ngát cũng bị biến mất.
Nghề truyền thống quê tôi là chế tạo sản phẩm bằng trúc, dùng trúc đan rổ, thúng hay giỏ mây cũng dần mai một.


                                                    Cây trúc đã cắt


     Nan chẻ ra từ trúc để đan

 Ruộng vườn thì thu hẹp và được thay thế bằng những khu công nghệ thu hút và tạo công ăn việc làm cho dân chúng trong làng. Chú út nói: bây giờ tìm công nhân làm nông rất khó, tuổi trẻ ngày nay chỉ muốn vào làm công nhân xí nghiệp, có lương căn bản, không phải dãi nắng dầm sương như thế hệ chúng tôi. Cuộc sống bây giờ dù ở thôn quê chẳng thua kém gì ở thành thị: Internet, tivi, computer, digital camera, cell phone, DVD, tủ lạnh, máy giặt, máy tắm nước nóng, kể cả máy lạnh không còn là thứ hàng xa xỉ mà là vật dụng bình thường phục vụ cho nhu cầu gia đình.Tôi rất vui và yên tâm vì các cháu tôi đều có công việc làm ổn định, đa số lại theo nghề giáo của “chú út” và sống tạm vững.


 Bánh canh và bánh tráng phơi sương cuốn thịt luộc là món ăn đặc sản nổi tiếng của quê tôi. Nay ngồi thưởng thức mà nhớ về những ngày ấu thơ. Ngày ấy với chúng tôi đây là món ăn xa xỉ nhưng hiện nay quán đặc sản phục vụ cho dân địa phương và khách du lịch mỗi ngày.


Sân vận động ngày xưa nay biến thành chợ Trảng Bàng, to lớn và khang trang , phục vụ nhu cầu dân chúng. Cháu tôi chở tôi trên chiếc xe gắn máy dạo từ thị trấn cho đến thôn làng để thăm bà con cô bác và cũng để tôi thấy những hình ảnh vùng quê trong thời chiến xa xưa nay dần biến mất.

Điều đầu tiên tôi ngạc nhiên là quán: quán ăn, quán café, quán nhậu. Từ hang cùn ngõ hẻm, những vĩa hè cho đến các cánh đồng xa xôi, đâu đâu cũng có quán.
 Sáng quán, trưa quán, chiều quán, thậm chí nửa đêm cũng quán. Hầu như những người ở đây giải quyết mọi việc đều ở quán. Tôi thấy rằng những thời gian đáng lý mọi người phải làm việc trong văn phòng hay cơ xưởng hoặc ngoài đồng ruộng  nhưng quán vẫn đông, nhất là quán café. Tôi nhận ra được không ít nhân viên hành chánh vẫn ngồi quán trong giờ làm việc. Những điều này rất khác lạ với nơi tôi đang sống nhưng ai cũng nói “giải quyết công việc ở quán hiệu quả và nhanh chóng hơn; không nơi nào dễ dàng hơn bàn nhậu hay quán café, muốn gì cũng được!” Trẻ con ở đây bây giờ tụm 3 tụm 7 đánh bài hay vào quán internet chơi game, chúng không còn biết những trò chơi thú vị đậm nét dân gian của chúng tôi ngày trước như bắn đạn, đánh gồng, đá cá lia thia , đá dế, thả diều, nuôi chim  v.v...  Ngày xưa, sau vài cơn mưa thì bọn tôi ra ruộng vớt cá lia thia về đá, mùa hè thì tìm dế, dế mà nằm trong hang rắn được xem như vô địch. Có những hôm đánh trỏng , gồng rơi xuống u đầu. Những buổi chơi ổ quạ[2] thì thế nào chân cũng bầm vập. Những lúc bị thương tích phải len lén vào nhà . Nếu nội hay má tôi biết được thì thêm ốm đòn. Thời thơ ấu của tôi quá giản dị và êm đềm!
 Các em học sinh Đất Đỏ đưa tôi đến Mộc Bài ở Gò Dầu, gần cửa khẩu nối liền Campuchia. Ở đây có khu siêu thị bán các loại hàng hóa nhập từ ngoại quốc, được miễn thuế và tổ chức như các siêu thị ở Mỹ. Khi  xe vừa đến bãi đậu, tôi được mời chào vào casino bên kia biên giới thuộc Campuchia. Những tay cò mồi môi giới cho các casino hoạt động công khai, không sợ pháp luật. Nay tôi mới hiểu vì sao có những gia đình tan vở, tán gia bại sản khi  họ chỉ cần 1 lần thử lửa chốn Casino.
 Tôi cũng không quên dừng bước nơi Tha la, một vùng công giáo ở xã An hòa, quận Trảng bàng mà nhà thơ Vũ Anh Khanh đã mô tả vào năm 1950:
Đây Tha La xóm đạo
Có trái ngọt cây lành
Tôi về thăm một dạo
Giữa mùa nắng vàng hanh…
 Đứng trước sân nhà thờ, tôi nhớ đến những người bạn nơi đây cùng học lớp đệ ngũ trường bán công Đặng Văn Trước vào năm 1964.
Khi còn ở quê nhà, lần sau cùng tôi dừng lại Tha la vào năm 1969 khi tôi khoác áo Nghĩa sinh di làm công tác thiện nguyện cho đồng bào hồi hương từ Campuchia .

Cháu tôi đưa tôi đi Đức Hòa để thăm người bạn năm xưa và gia đình Cô tư. Tôi dừng lại trước những mẫu ruộng còn sót lại trong gia đình . Có lẻ nơi này không hấp dẫn các nhà đầu tư  nên mảnh ruộng kia còn tồn tại với thiên nhiên.

 


Một buổi chiều tắt nắng, cháu tôi đưa tôi vô Tòa Thánh, trung tâm đầu não của đạo Cao Đài. Tòa Thánh được bảo quản rất tốt, tôi không nhận ra 1 sự thay đổi nào cả. Kiến trúc xưa không thay đổi  nhưng tín hữu thì đông hơn. Những nghi lễ vẫn được mọi người tôn trọng và bảo quản. Tòa Thánh hằng ngày mở cửa đón tiếp du khách thập phương. Hàng năm Tòa Thánh tổ chức 2 lần lễ lớn: ngày 18 tháng 2 (âm lịch) và ngày 14 tháng 8 (âm lịch). Đây là lễ hội quốc gia, mọi người dù có đạo hay không đều đổ xô về dự lễ. Lễ hội này không thua kém gì lễ giỗ tổ Hùng Vương. Trong những ngày lễ này, khách thập phương được thết đãi ăn miễn phí.


 Trong những ngày ở thị trấn Long Hoa, cháu tôi đưa tôi đi thăm núi Bà. Đây là lần đầu tiên tôi đi lên núi. Tôi không phải lội bộ và leo theo sườn núi mà đi bằng cáp treo. Cháu tôi kể cáp treo này là cáp đầu tiên của nước nhưng nay thì lạc hậu. Ngồi trên cáp nhìn xuống  những cánh đồng bất tận, những ngôi chùa được trùng tu, không còn gì dấu ấn của chiến tranh khi tôi còn ở nơi này.


Khi xuống cáp, bắt đầu bước lên những bậc thang cao chót vót; tôi không biết mình có bước lên đến tận đỉnh hay không.


Tuy nhiên tôi cũng lên tận bậc thềm của ngôi chùa trên sườn núi.

     Tất cả đối với tôi đều mới lạ, quê hương tôi thay da đổi thịt hằng ngày nhưng vẫn còn đó những người chịu thương chịu khó, bám trụ với mảnh đất này. Bên cạnh những ngôi biệt thự khang trang không ít những những gia đình nghèo xơ xác.  Tôi được người chú họ đưa đi thăm lại khu Phước Điền, nơi mà ngày xưa tôi và các đoàn viên Nghĩa sinh đã đến giúp đở cho đồng bào tránh nạn diệt chủng, chạy nạn từ Campuchia. Bây giờ Phước Điền là khu du lịch sang trọng. Nơi đây tôi đã gặp lại các anh cùng tôi tham gia phong trào thiện nguyện Nghĩa sinh . Chú Nguyễn Vạn Thắng; cựu sinh viên ĐHSPSG, ban Lý Hoá năm 69-72; nghe tin tôi về quê cũng vội vã từ Sài gòn lên Tây ninh để hội ngộ. Không có từ ngữ nào diễn tả chính xác được những tình cảm mọi người dành cho tôi.
     Tôi về đây sau 32 năm xa cách, cảm giác buồn vui lẫn lộn. Buồn vì kẻ còn người mất, có những người tôi muốn gặp nay chỉ là tấm ảnh vô tri. Vui khi thấy các anh em họ đều thành công, có địa vị trong xã hội. Các cháu tôi không quá vất vả như cha ông ngày xưa phải dãi nắng dầm mưa, đầu tắt mặt tối để mưu sinh. Tôi thấy bằng chính con mắt mình cuộc sống người dân nơi này và những khó khăn mà mọi người phải đối phó. Các cháu tôi cũng như những đồng nghiệp của các cháu có đồng lương nhà giáo quá khiêm tốn. Tôi không biết họ phải thu xếp thế nào để cuộc sống được ổn định mà an tâm phụng sự nghề nghiệp. Các cháu tôi tường thuật “ muốn sinh tồn trong xã hội này, ai ai cũng phải có nghề tay trái”. Nếu có điều kiện thì dạy thêm, còn nếu như công tác những nơi quá khó khăn không thể dạy thêm thì chăn nuôi hay nhận hàng về gia công ban đêm. Có thế thì thu nhập tương đối tạm đủ để lo cho con ăn học.
Tôi không có nhiều thời gian để đi khắp hang cùng ngõ hẻm hay thăm hỏi tất cả họ hàng, bè bạn nhưng tôi cũng biết và hình dung cuộc sống quê nhà. Tôi tự nhủ lòng mình: một ngày nào đó không xa, tôi sẽ trở về và có nhiều thời gian hơn để khám phá lại nơi đây. Tây Ninh bao giờ cũng ở trong tôi và  mãi mãi vẫn là quê hương tôi.
Tây ninh có núi điện bà
Tha la xóm đạo và nhà ba tôi!
Virginia, 18 tháng 8 năm 2012




[1] Cần vọt là hai cây tre lớn bằng bắp chân đóng hay buộc dính chắc vào nhau bằng những thanh ngang coi giống như một cái thang. Chân cái thang đó được chôn đứng cách giếng độ hai ba thước. Trên đầu có một cốt tròn xỏ qua hai thân tre. Bắt dính chắc trên cái cốt đó là một thân tre dài, đầu to là đầu nặng nằm đụng đất, đầu nhỏ chỉ lên trời coi giống như một đòn bẩy hay một cái đu nhún lên hạ xuống của trẻ con. Đó là cái cần. Trên đầu cần là một cây sào bằng tầm vông dài xuống gần miệng giếng, đầu dưới của sào có cái móc để móc cái gàu. Muốn lấy nước, người ta kéo cây sào thòng gàu xuống giếng đợi gàu đầy nước là kéo gàu lên, cây cần làm đòn bẩy giúp cho người kéo nước không phải phí sức.

[2] Đánh quạ là trò chơi của trẻ con miền quê . Thường có 4 người,  vẽ 1 vòng tròn khoảng 2 mét và mỗi người dùi 1 cái lổ vừa cái lon sửa bò đập dẹp (gọi là quạ). Mỗi người có 1 cây tầm vong khoảng 1 mét để làm vũ khí. Khi bắt thăm ai thua thì làm người lùa quạ. Số người còn lại thì canh giữ cái lổ của mình không cho quạ vào. Khi quạ bắt đầulùa vào lổ thì người bảo vệ đánh quạ ra, có khi hụt, đánh vào chân người lùa quạ . Ai cố tình đánh vào chân người lùa quạ sẽ bị đuổi ra cuộc chơi và từ đó không ai cho gia nhập cuộc chơi nữa. Ai bảo vệ kém để quạ vào lổ của mình thì ngườì đó ra thế chổ người lùa quạ. Cuộc chơi kéo dài cho đến khi chán hay bị cha mẹ gọi về nhà.