Thứ Năm, 28 tháng 2, 2013

Về thăm đất mẹ




Bn mươi năm tr v thăm đất M
Nơi thôn làng ng r đã đổi thay
Nh hàng tre gc trúc hàng ngày
Con đường nh kéo cày hai bui
Nay tr v như cơn gió thi
Đứng lng nhìn bi ri tâm can
Cánh đồng xưa không th b hoang
Đã thay thế bng làng công nghip
Dân trong làng ngày đêm nhn nhp
Gng gng lên đui kp miếng ăn
Nhìn dân làng sao quá nhc nhn
Đã mt hết đồng bng rung rc
Ngôi trường xưa lp bng ngói móc
Nay thành lu đã mc vươn cao
Nhng năm xưa đã vt qua mau
Nhưng vn thy nao nao cht d
Dân nơi đây vn cười vui rn rã
Vy tay chào người mt l v quê!
Trảng bàng
 20-11-2011
Trần-Lâm Phát

Thứ Ba, 26 tháng 2, 2013

VÀI NÉT LẠ TRONG THƠ LƯU NGUYỄN



Kính thưa quí quan khách và văn hữu,
Chiều nay, tôi lại được cái hân hạnh hầu chuyện thơ văn cùng quí vị và quí bạn. Ðó là giới thiệu tập thơ Tri Âm của Lưu Nguyễn vừa mới được nhà xuất bản  Sông Thu bên Mỹ ấn hành. Trong niềm sung sướng có chứa nỗi lo âu. Tôi lo vì làm việc quá khó. Tôi nhớ vào thế kỷ thứ sáu, Lưu Hiệp tác giả quyển phê bình văn học đầu tiên của Trung Hoa, quyển Văn Tâm Ðiêu Long, đã từng ví von - làm thơ khó như chuyện vẽ rồng.
Tại sao khó? Vì rồng là một con vật của trí tưởng tượng, không có thiệt. Vậy làm sao để vẽ cho đúng. Chuyện làm thơ đã khó rồi, việc phê bình thơ lại khó hơn nữa. Phê bình thơ như cầm dao mỗ bụng rồng để coi trái tim của nó. Quí vị thử tưởng tượng coi, tôi phải làm sao đây?
Ngoài cái khó đó ra còn thêm một nỗi nữa, hồi nào tới giờ øtôi chưa làm được một câu thơ, nói chi tới một bài. Chưa từng làm thơ mà lại đi nhận định thơ người, có khác nào câu tục ngữ Trung Hoa có nói -"vị tha nhân, tác giá y thường" có nghiã là -một cô gái già, vì người khác mà may aó cưới. Trong đời cổ có bận áo cưới lần nào đâu, tuy áo may vừa, may đẹp, may khéo, nhưng cái cảm giác sung sướng, bồi hồi, rạo rực của cô dâu bận áo mới, bước lên xe hoa về nhà chồng (ở bên Tàu thời trước, chồng là một người lạ hoắc), làm sao mà cô ta cảm nhận cho được!
Thiệt tình tôi đã làm chuyện tréo cẳng ngổng. Cô dâu Lưu Nguyễn thấy tôi thường khoe dao, khoe kéo, kim chỉ vá may, cầm cáo áo Tri Âm đưa cho nhờ coi khéo hay vụng. Tôi đành nhận lời không dám từ chối vì sợ lộ cái dốt của mình. Thôi thì biết bao nhiêu, nói bấy nhiêu để tạ lòng bạn tri âm.
°
Ðiều làm tôi ngạc nhiên đầu tiên là thơ Lưu Nguyễn phảng phất cái không khí ngày xưa. Cái thời của kẻ sĩ, của nhà nho. Ðọc hai câu nầy tôi chợt sững sờ:
Khi im lặng, người với ta là bạn
Bỡi vô ngôn, tự nó đã nhiệm mầu
 (Cuộc rong chơi, trg 30)
Cái không khí đời Ðường, đời Tống bàng bạc! Thế nào là mối tình cao quí? Tình vua tôi, tình cha con, tình vợ chồng, tình bè bạn... Giữa hai người khi thương mến nhau, diễn tả tình thương bằng ngôn ngữ với thái độ ồn ào, hay ngồi im bên nhau để nghe tiếng lòng của nhau? Người quân tử xưa kia hằng mấy năm không gặp, khi gặp nhau ngồi im lặng bên nhau cả giờ không nói, hoặc nói rất ít. Ðức Khổng Tử nhấn mạnh điều đó " quân tử đàm giao, đạm nhược thuỷ" -người quân tử nói chuyện với nhau, lạt như nước lạnh. Vì nước êm ả nhẹ nhàng, không hương, không vị. Ông Ðào Tiềm đời Tấn yêu hoa cúc vì hoa cúc màu vàng nhạt không le lói, sặc sở và hương chỉ thoáng nhẹ, hầu như không có.
Người quân tử không ưa hoa lan vì lan là vương giả chi hoa, không ưa mẫu đơn vì mẫu đơn là phú quí chi hoa. Ðã là bạn thâm tình thì cần gì phải nói nhiều. Và cái mầu nhiệm cao quí ở chỗ không nói đó. Chữ hay nhứt trong câu thơ là chữ "tự nó"
Lưu Nguyễn cũng bộc lộ nét nghệ sĩ tài hoa trong cái nhìn chiêm ngưỡng vẻ đẹp của cảnh vật thiên nhiên với những cảm xúc của nội tâm đơn thuần. Cảnh thiên nhiên hiện ra với cái vẻ đẹp tự nhiên của nó mà không có một gắng sức sửa đổi nào của thi nhân:
Kìa thu có phải là thu
sao ta cứ ngỡ mây mù cuối đông
Rằng như có, rằng như không,
Cho ta một chút bềnh bồng lãng quên

(Bềnh bồng, trang 85)
Ðó là đặc tánh của thơ Ðường. Cái man mác của khí vị của thơ Ðường lãng đãng ở mỗi chữ mỗi câu. Thơ Ðường thường nhắc đến ánh trăng. Như trong bài Thiên Thai Tống Biệt lúc Lưu Nguyễn về trần, Tào Ðường đã làm hai câu kết như sau:
Trù trướng khê đầu tòng thử biệt,
Bích sơn minh nguyệt chiếu thương đài
(Đầu suối bâng khuâng tình cách biệt
Núi xanh rêu biếc ánh trăng đi)
Lưu Nguyễn đời nay cũng nhắc đến ánh trăng:
Thu xứ người ngập lá,
Kỷ vật chiếc thuyền con,
Bàng hoàng như khách lạ,
trăng sáng chiếu đầu non.

(Chiếc lá vàng rơi, trang 73)
Lưu Nguyễn nhìn thu quê người, cảm khái thân phận tỵ nạn, chàng đã từng lênh đênh trên chiếc thuyền nhỏ vượt đại dương, rồi sống lưu lạc nơi xứ người. Nhưng cái hay ở đây, không phãi là cách làm thơ giống thơ Ðường (vì có rất nhiều người cũng làm thơ Ðường, mà không hay! )
Tôi muốn nói đến cái khí vị của thơ Ðường ở câu " bàng hoàng như khách lạ" Cái hay ở chữ " khách lạ" Người tỵ nạn ở xa quê thì tự nhiên đã là người khách lạ nơi mình cư ngụ. Làm sao là khách quen được khi mình khác màu da, màu tóc, khác tiếng nói, kề cận không người thân thích, ruột rà... Nhưng cuộc sống mới không vui, nên tác giả đâm quên mất không gian, quên mất thời gian, ngay cả tự bản thân cũng quên lững không biết mình là ai nữa. Bất chợt trong một đêm trăng sáng, nhìn thấy được lá vàng rơi ngập lối đi, mới chợt tĩnh ra nhớ lại, mình đã là người khách lạ từ lâu lắm, đang sống xa quê hương nửa vòng trái đất, đâm sảng sốt, bàng hoàng.. Cái cảm giác trống vắng bơ vơ. Toàn cảnh thiên nhiên cũng như trong lòng, chỉ còn trơ ra ánh trăng sáng, lạnh ngắt, trên đầu núi.
Hai chữ khách lạ đã khéo, nhưng chữ " như " lại càng khéo hơn. Nếu không đặt được chữ " như " ở đây thì chữ " khách lạ " trở nên bình thường, đục mờ, lu câm... Lưu Nguyễn đã tìm ra chữ "như " đặt vào đúng chỗ, hai chữ "khách lạ " sáng lên, lấp lánh khiến toàn bài rực rỡ, trong suốt.
Nhưng nghệ thuật của Lưu Nguyễn còn nổi bật hơn trong những đọan thơ với những tiết điệu kỳ lạ. Thơ khác hơn văn xuôi ở chỗ đặt cơ sở trên cảm giác về âm vận, tiết điệu. Cũng thời bao nhiêu chữ, bao nhiêu câu đó, phải lựa chỗ, lựa nơi, thêm chữ nầy, bớt chữ kia, cố sắp xếp làm sao tạo được cái cảm giác bồi hồi cho người đọc. Mỗi chữ, mỗi lời phải xôn xao, nhảy múa, linh động... Từ cái tính chất xao xuyến, chơi vơi đó, nhà thơ dẫn dắt độc giả vào cõi mông lung của cảm giác, chuyện khó như nhảy xuống nước mò trăng.
Vậy mà Lưu Nguyễn có lần làm được. Chúng ta cùng nhau đọc thử đoạn nầy:
Vẫn có chút ngập ngừng trong ánh mắt
Tay run run rượu sánh đổ tràn ly
Trong hạnh phúc giữa đất trời quay quắt
Thẹn thùng em khép bờ mi.
Muốn là gió len qua vài sợi tóc
Nhè nhẹ mơn man phiến má hồng
Mỗi bận vui tan em có khóc
Hong khô những giọt lệ nồng
(Bài thơ cho em, trg 54)
Chúng ta đừng quá chú ý nhiều đến ý nghiã của đoạn thơ, vì chuyện hai người yêu nhau, chuyện khóc lóc, chuyện uống rượu, thi nhân nào cũng thường nói tới. Cái mà chúng ta để ý là tiết điệu của câu thơ.
Ðoạn bốn câu trên, ba câu đầu mỗi câu tám chữ, câu cuối sáu. Ðoạn dưới câu đầu tám chữ, hai câu kế bảy chữ, và câu cuối cùng sáu chữ. Ðiều đó nói lên được cái tuyệt diệu của nghệ thuật bỏ lững. Ðương nói dài dòng, bỏ lững nửa vời, để tạo cái cảm giác chơi vơi của người đọc, người nghe, là một nghệ thuật rất cao.
Cần gì phải nói nhiều, nói thêm, nửa câu đã đủ ý... Cái phần còn lại để dành cho độc giả tưởng tượng thêm. Cái tưởng tượng bao giờ cũng hay hơn cái có thật, cái chưa có bao giờ cũng hấp dẫn hơn cái đã có. Như vậy cái chữ mình tưởng thiếu đó, tự nó đã đủ và quá hay. Nếu một người mới tham gia vào làng thơ, sẽ rán mà kiếm thêm một chữ nào đó để thêm vô cho đủ. Các bạn thử tưởng tượng mà coi, câu thơ đó sẽ trở thành ra cái gì!
°
Nhưng cái tuyệt vời nhứt của nghệ thuật thi ca là sáng tạo. Sáng tạo ra ý, ra ngôn ngữ, ra vần điệu... Tôi thường để ý thơ hay là thơ thường không nói thẳng vào ý chánh, mà nói quanh co mơ hồ, người nghe vẫn cảm nhận được ý mà thi nhân muốn nói. Ðiều nầy khá lạ lùng và tuyệt vời lắm. Nếu nói quá một chút thì thơ hay thường là những câu không nghiã hoặc những câu không rõ nghiã, chỉ có âm thanh trầm bổng... Vậy mà người nghe cứ tưởng mình hiểu được cái ý, cái tình mà thi nhân gởi gắm.
Trong đêm từ giả nhà để theo Mã Giám Sinh, Kiều đã nói:
Mai sau dù có bao giờ
Ðốt lò hương ấy so tơ phiếm nầy.
Câu thơ đọc lên, ai cũng đều hiểu rõ - mai nầy, chẳng may chị có mệnh hệ nào, thì em hãy đốt lò trầm, ôm lấy đàn gảy lại bản nầy là nhớ đến chị
Thử phân tích, ta thấy là lạ. " dầu có bao giờ " là sao? Câu nầy không có nghiã gì hết. Chữ " mai sau" và " bao giờ" là hai từ dùng để chỉ thời gian, chữ " dầu có " đứng ở giữa lạc lõng. Ðáng lẽ phải nói- mai sau dầu có ra sao, mới đúng. Vì chữ ra sao được hiểu là sẽ chết chóc, đổ vỡ, tan nát như thế nào đó. Nhưng nếu viết như vậy thì quá kém. Nhà thơ phải nắm bắt bất cứ chữ nào đó, uốn nắn theo ý mình muốn. Nguyễn Du thường làm điều nầy, chữ "bao giờ" ở đây có nghiã là "ra sao". Cái thần tình của câu thơ là ở chỗ đó. Thi sĩ sử dụng âm thanh phải như phù thuỷ sử dụng âm binh.
Ta thử đọc:
Phương ấy có người lận đận
Mấy năm thơ chẳng về nhà.

(Phương ấy có người lận đận trang 15)
Phương ấy là phương nào ? Chỉ đọc câu trên, ta nghĩ là ở Việt Nam. Phương ấy là ở bên ấy, ở bên kia chớ không phải bên nầy. Nhưng đọc tới câu dưới - mấy năm thư chẳng về nhà, thì ta hiểu ngược lại liền. Phương ấy là khung trời Canada, một nơi xa vắng mà tác giả hiện cư ngụ, vì lận đận nợ áo cơm nơi quê người, nên không viết thơ.
Cái chữ " ấy" khiến câu thơ tuyệt vời. Người Trung Hoa gọi những chữ như vậy là nhãn tự. Chữ đó là con mắt, nó khiến cho toàn thể gương mặt sáng long lanh.
Cũng vậy chúng ta ngây ngất khi đọc tới câu:
Mai em ở lại trường làm thầy dạy học
Mai anh về như thể về không

(như thể về không trang 46)
"Như thể về không" là như thế nào ? Về không là ra về tay không, không có cái gì hết. Công danh, sự nghiệp, tiền bạc, tình yêu... tất cả đều không. Nhưng tại sao tác giả dùng chữ "như thể " ? Ðọc ngang đây, chúng ta hiểu ngược lại- hình như chưa phải là không tất cả. Vậy thì còn có một thứ mơ hồ nhè nhẹ, thoáng mang theo. Ta phải hiểu là nhà thơ không phải ra về tay không đâu. Có một thứ gì lưu luyến đẹp lắm, quấn quít, vương vấn theo mãi đó... Tôi cảm thấy như vậy và tôi tin rằng các bạn đây đều cảm thấy như vậy.
°
Người thi sĩ như con tằm phải biết cách bắt lá dâu xanh biến thành tơ nõn. Chỉ có thi sĩ mới làm được diều đó và chỉ có thi sĩ mà thôi. Tôi đọc hết tập Tri Âm trong niềm cảm xúc chơi vơi, quả thật tôi đã tìm được dáng rồng, tôi cũng chụp bắt được một vài nét lạ.
Phải bao nhiêu năm Lưu Nguyễn mới làm được tập Tri Âm ? Năm năm, mười năm? Có người cho rằng làm thơ như vậy là quá lâu. Tôi thì không lưu ý đến thời gian dài hay ngắn,ï miễn là thơ hay. Có nhiều thi sĩ nổi tiếng chỉ làm một bài trong đời. Huống chi Lưu Nguyễn có cả một tập thơ. Tôi xin kết luận bằng bài thơ của Giả Ðảo đời Ðường:
Nhị cú tam niên đắc
Nhất ngâm song lệ lưu
Tri âm như bất thưởng
Qui ngoạ cố sơn thu.
(tạm dịch: hai câu làm trong ba năm
Khi ngâm lên hai dòng lệ chảy
Nếu bạn tri âm không khen được
Thì ta về nằm lỳ trong núi mùa thu)
Thành thật cám ơn quí vị và các bạn.
Võ Kỳ Ðiền
(Ðàm Trường Văn Bút Québec 17-11-1990)

Có nẻo nào chăng



Ngồi đây nhớ phố Sài gòn
Những con đường vắng có còn dáng em
Gió mơn từng sợi tóc mềm
Mà lòng ta bỗng êm đềm xót xa
Đớn đau gờn gợn âm ba
Nhớ thương trĩu nặng như là ngàn cân
Đường đi lắm nẻo phân vân
Đường về một nẻo ngại ngần khó khăn
Nửa vời lơ lửng băn khoăn
Ô hay! Có nẻo nào chăng quê người !!!
                                       Lưu Nguyễn


Lưu Nguyễn là bút hiệu của Nguyễn Thế Nghiệp.
Nhà thơ Lưu Nguyễn  tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Sài gòn ban Văn chương năm 1971. Cựu giáo sư Trung Học Công Lập Đất đỏ . Sau 1975 ông “quy khứ lai từ” ở Long Khánh 2 năm. Sau đó về lại Sài gòn trôi sông dạt chợ. Năm 1980 ông định cư ở Canada . Nơi đây ông chủ bút các tạp chí Vượt biển, Nắng mới (1982-1989) và là Tổng thư ký Văn bút Việt nam hải ngoại, trung tâm Québec (1987-1991). Lưu Nguyễn xuất bản nhiều tập thơ hải ngoại: Tri âm, Trái tim người biết yêu, Ngày qua rất vội, Thiên thai lạc lối về

Chủ Nhật, 24 tháng 2, 2013

Bài thơ Cáo Tật Thị Chúng của Thiền Sư Mẫn Giác

告疾示眾
Cáo tật thị chúng
Có bịnh bảo mọi người
春去百花落
Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đi trăm hoa rụng

春到百花開

Xuân đáo bách hoa khai

Xuân đến trăm hoa cười

事逐眼前過

Sự trục nhãn tiền quá

Trước mắt việc đi mãi

老從頭上來

Lão tòng đầu thượng lai

Trên đầu, già đến rồi

莫謂春殘花落
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết

庭前昨夜一枝梅
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
Đêm qua sân trước một cành mai
Mãn Giác Thiền sư
 滿覺禪師 (1052-1096)
Trần-Lâm Phát chú âm
Ngô tất Tố dịch


Cáo
Báo cho biết, trình lên cho biết
Tật
Bịnh
Thị
Mách bảo cho biết
Chúng
Đám đông, số người



Cáo tật thị chúng: Báo bịnh cho mọi người
Xuân
Mùa xuân
khứ
đi (như khứ hồi là đi và về)
bách
100
hoa
bông hoa
lạc
rơi, rụng


Xuân khứ bách hoa lạc: mùa xuân qua rồi, hàng trăm hoa rụng

Xuân
Mùa xuân
đáo
đến
bách
100
hoa
bông hoa
khai
mở, nở ra


Xuân đáo bách hoa khai: mùa xuân đến, hàng trăm hoa đua nở

Sự
việc là
trục 
đuổi theo
nhãn
con mắt
tiền
phía trước
quá
vượt qua như quá khứ là thời gian đã qua


Sự trục nhãn tiền quá: việc đuổi theo nhau đi qua trước mắt
Lão   
Già
tòng
theo
đầu
cái đầu
thượng
trên
lai
đến


Lão tòng đầu thượng lai: già theo từ trên đầu mà đến

Mạc
chớ đừng, không phải
vị
nói, gọi là
xuân
mùa xuân
tàn
tàn tụa
hoa
bông hoa
lạc
rơi, rụng
tận
hết


Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận: Đừng nói cuối mùa xuân hoa rụng hết

Đình    
Sân trước nhà
tiền
Mặt trước
tạc
Hôm qua
dạ
đêm
nhất
1
chi
cành
mai
hoa mai


Đình tiền tạc dạ nhất chi mai: sân trước  nhà, tối hôm qua 1 cành mai trổ ra