Thứ Tư, 22 tháng 5, 2013

Mùa báo hiếu




                 Nhớ Mẹ

Bao năm con nhớ quê nhà
Vườn cau khóm trúc luống cà cây chanh
Đêm dài thôn xóm vng tanh
Có con nh
n nh mng manh bt cu
M
thì sp xếp thúng tru
Còn con hái b
ưởi dưới bu trăng thanh
Nh
ng năm tháng tt ngày lành
Vài
đêm vt v để dành mt năm
Quê ng
ười cũng có trăng rm
Riêng con l
ng l âm thm nh quê
Bao gi
con mi tr v
Vi
ếng thăm m m nm k bên cha?


Virginia 14 tháng tư Tân Mão (2011)
Trn Lâm Phát
31-05-2011

Xin mời độc giả thưởng thức Mùa Báo hiếu video do Ngọc Đan Thanh và Chí Tâm trình diễn






Mẹ

Đã hơn 30 năm rồi tôi không có cơ hội để đọc lại bài thơ “Mất mẹ” và nhìn những hàng lệ chảy dài trên đôi má với cặp mắt đỏ ngầu của những nữ sinh và những khuôn mặt buồn hiu của các cậu trai lớp 10  khi nghe tôi giảng nghĩa từng lời thơ và vai trò cao quí của người mẹ, nhất là bà Mẹ Việt Nam.  Đây chỉ là những nét sơ lược những nổi khốn cùng của thân phận mồ côi và những dòng văn thơ ca ngợi bà mẹ của chúng ta.

Mất mẹ
Năm xưa tôi còn nhỏ
Mẹ tôi đã qua đời
Lần đầu tiên tôi hiểu
Thân phận kẻ mồ côi
Quanh tôi ai cũng khóc
Im lặng tôi sầu thôi
Để dòng nước mắt chảy
Là bớt khổ đi rồi
Hoàng hôn phũ trên mộ
Chuông chùa nhè nhẹ rơi
Tôi thấy tôi mất mẹ
Mất cả một bầu trời
Vô Danh

Tác giả đã ghi lại nỗi lòng của một đứa bé mồ côi:
Năm xưa tôi còn nhỏ
Mẹ tôi đã qua đời
Lần đầu tiên tôi hiểu
Thân phận kẻ mồ côi

Lời thơ rất đơn sơ, gọn gàn, diển tả nổi đau thương của người bất hạnh.
Người xưa cũng không ngần ngại giáo dục kẻ hậu sinh sự diểm phúc của người có cha có mẹ:
      Có cha có mẹ thì hơn
      Không cha không mẹ như đờn đứt giây
      Đờn đứt giây còn xoay còn nối
      Cha mẹ mất rồi con chịu mồ côi!

Thiệt thòi hơn nữa cho sự mất mát của cha mẹ vì
      Mồ côi khổ lắm ai ơi!
      Đói cơm không ai biết, lỡ lời không ai phân

Mẹ là ai ? Ai cũng một lần có mẹ nhưng có người may mắn còn mẹ, có người bất hạnh đã mất mẹ vừa lúc lọt lòng. Dù thế nào chăng nữa mẹ cũng cưu mang đứa con của mình chín tháng mười ngày. Biết bao nổi nhọc nhằn mà người mẹ đã gánh chịu từ lúc đứa bé tượng hình cho đến khi trưởng thành.

Ca dao ta cũng truyền bá từ đời này qua đời khác tấm lòng của mẹ:
      Mẹ già như chuối ba hương
      Như xôi nếp một[1] như đường mía lau

Dưới ách thống trị của nền phong kiến thực dân, dân ta bị thất học cho nên dân gian dùng những hình ảnh cụ thể trong cuộc sống mà so sánh công lao của người mẹ. Ai cũng biết  sự ngọt ngào của chuối ba hương, sự dẻo dai và thơm tho của nếp  và sự uyển chuyển thanh tao, nhỏ nhắn, ngọt ngào, hiên ngang của cây mía lau. Tất cả những đặc tính của người mẹ được diễn tả rất cụ thể và rõ ràng qua hai câu thơ lục bát này.
Người mẹ luôn luôn bảo vệ cho đứa con của mình; cho nên mất mẹ là “Mất cả một bầu trời!”:
       Mồ côi cha ăn cơm với cá
       Mồ côi mẹ liếm lá đầu đường

Rồi em bé mồ côi không thể khóc, nén thương đau trong lòng khi thấy mọi dứa trẻ xung quanh đều oà lên nức nở:
        Quanh tôi ai cũng khóc
        Im lặng tôi sầu thôi
Cái im lặng đó là một mũi tên độc đã bay vào tim của em bé, không thốt nên lời.
Thế rồi giọt nước mắt nhạt nhoè trên đôi má. Thì ra em bé đã khóc tự lúc nào, cái khóc im lìm chứa chan nỗi khổ đau.  Có lẻ em bé thầm ao ước được nằm trong vòng tay âu yếm của mẹ hiền:
         Để dòng nước mắt chảy
         Là bớt khổ đi rồi

Cái khổ đau này kéo dài trong cuộc đời của em bé. Mỗi ngày khi hoàng hôn bắt đầu chĩu xuống, ánh nắng chiều lướt qua mồ mẹ cùng với tiếng ngân nga của chuông chùa đã nhắc nhở em bé là mình đã mất mẹ và vết thương lại quặng lên:
          Hoàng hôn phũ trên mộ
          Chuông chùa nhè nhẹ rơi
          Tôi thấy tôi mất mẹ
          Mất cả một bầu trời

Tác giả đã cho ta cái nhìn về tầm quan trọng của mẹ trong cuộc sống hàng ngày. Trong bài “triết lý giáo dục”, Trần-Lâm Phát đã viết:
“Mẹ là người thầy đầu tiên; khi đứa bé vừa lọt lòng, mẹ đã dạy con uống sữa; khi đứa bé lớn lên, mẹ dạy con học ăn, học nói, học gói và học mở[2]. Sau cùng mẹ dạy con phong tục, lễ nghi, nhân cách và phẩm độ của con người”

Xã hội ta đã giao cho bà mẹ một trọng trách nặng nề:
           Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà

Năm 2002 nhà thơ Mỹ Huệ cũng không khác gì với chúng ta, chỉ còn cách duy nhất là ước ao cho mẹ theo cha về cỏi niết bàn:
            Mẹ đã theo cha về cỏi Phật,            
            Con còn ngơ ngẩn bước trần ai.
            Áo con nay kết hoa hồng trắng[3]
            Thắp nến hương trầm khóc mẹ yêu.
            Cầu mẹ phiêu diêu miền cực lạc
            Nước nhược non bồng ấm gót chân.
            Thôi nhé mẹ ơi con tiển mẹ,
            Ơn nghĩa sinh thành dạ khắc ghi

Năm 1962 Thiền sư Thích Nhất Hạnh cũng đã vinh danh người Mẹ qua tác phẩm ‘Bông Hồng Cài Áo” và nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ đã phổ nhạc:
         Rủi mai này mẹ hiền có mất đi
         Như đóa hoa không mặt trời
         Như trẻ thơ không nụ cười
         Và đời mình không lớn khôn thêm
         Như bầu trời thiếu ánh sao đêm

Mẹ lúc nào cũng sát cánh bên con, lo sợ con phải mũi lòng khi tạm xa mẹ mặc dù chỉ trong khoảnh khắc đến trường. Năm 1941 nhà văn Thanh Tịnh ghi lại sự yêu thương cao cả của bà mẹ đưa con đi đến trường lần đầu tiên:
  “ Tôi quên thế nào được buổi mai hôm ấy một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi dẫn tôi đi trên con đường làng dài và hẹp…”
  “…Tôi cảm thấy sau lưng tôi có một bàn tay dịu dàng đẩy tôi tới trước nhưng người tôi lúc ấy tự nhiên thấy nặng nề một cách lạ ….
…… Tôi bất giác quay lưng lại rồi dúi đầu vào lòng mẹ tôi nức nở khóc theo. Tôi nghe sau lưng tôi, trong đám học trò mới, vài tiếng thúc thít đang ngập ngừng trong cổ. Một bàn tay quen nhẹ vuốt mái tóc tôi .”

Những cử chỉ âu yếm đó của mẹ hiền làm sao đứa bé mồ côi có giây phút để tận hưởng.

Bên cạnh vai trò của người thầy, mẹ còn là một lương y. Người mẹ luôn luôn biết được những nguyên nhân đã làm cho con mình bị ấm đầu hay sổ mũi trong lúc trở trời và mẹ đã tìm được biện pháp để ngăn ngừa những bịnh tật ấy. Chỉ nhìn vào sắc mặt hay giọng nói của con, người mẹ đã biết ngay con mình mạnh khoẻ hay không và đương nhiên mẹ sẽ tìm cho con liều thuốc để vượt qua những lúc không may ấy:
   Mỗi lần con ốm mẹ buồn lo!
   Bán đôi bông cưới, mua thang thuốc
         Múa bánh tai heo, giấy học trò
         (Khói trắng, Kiên Giang, 13-6-1961)

 Mẹ là người phụng sự cho các con, cho chồng còn hơn người giúp việc. Người dân da đỏ của Mỹ đã và đang nói: “ Người đàn ông làm việc từ lúc bình minh cho đến hoàng hôn nhưng công việc của đàn bà thì không bao giờ kết thúc”
Công việc của mẹ chẳng khác gì như người ở không công.

Nhà thơ Trần tế Xương (1870-1907) đã ghi lại sự cần cù nhẫn nại và hy sinh cao cả của bà mẹ Vệt-Nam trong bài thơ “Thương vợ”:
Quanh năm buôn bán ở mom sông[4],
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo xèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng mười mưa, dám quản công.

         Sống trong hoàn cảnh thống trị của Nho giáo và phong kiến chủ nghĩa “trai năm thê bảy thiếp; gái chín chuyên một chồng”, bà mẹ Việt-nam chịu cảnh ức hiếp của chồng:
Gió đưa buội chuối sau hè
Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ
Con thơ tay ẳm tay bồng
Tay dắt mẹ chồng đầu đội thúng bông

 Thậm chí hơn nữa là mấy cô em chồng ức hiếp chị dâu, gây sự khinh hoàng trong cuộc sống hàng ngày:
  “Giặc bên Ngô[5] khôngbằng mấy bà cô bên chồng”

Nước ta là một nước có chiến tranh lâu dài nhất trên thế giới, cho nên bà mẹ Việt-nam ngoài bổn phận dâu hiền con thảo, còn phải đảm dang trách nhiệm của chồng.Trong tác phẩm “Chinh Phụ ngâm khúc”, bà Đoàn Thị Điểm dịch (?):
Lòng lão thân buồn khi tựa cửa,
Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm.
Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam,
Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân

Biết bao thơ, văn, nhạc, kịch đã ghi lại tấm lòng sắc son cao cả của bà mẹ Việt-Nam.
Hương Giang  thuộc giáo phận Thái bình trong phần mở đầu bài “Mẹ ơi! Con không thể nói”[6] đã viết:
“Từ bao đời nay, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong thơ văn cũng như trong cuộc sống đời thường thật đẹp biết bao. Đó là hình ảnh những người mẹ, người chị tảo tần một nắng hai sương hy sinh cho hạnh phúc của chồng con.”

 Ngày 30 tháng mười năm 1994, trong lề vinh danh tuổi thọ bát tuần cho bà Đặng Thị Bạch Tuyết[7], nhà khảo cứu Hồ Thiếu Bảo đã nhắc nhở kẻ hậu sinh: “ Hình ảnh của mẹ mãi mãi là một hình ảnh diệu kỳ, cho dù thế kỷ này với tất cả những tân tiến nhất, như bay lên vũ trụ những con tàu, kỳ diệu sao bằng mẹ gánh rau”

Tình mẫu tử là một mối tình thiên liêng bất tận. Mặc dù ngôn ngữ bất dồng trên thế giới nhưng em bé đều bắt đầu gọi mẹ với vần “M”. Em bé Việt-nam ta gọi Mẹ hay Má, những người nói tiếng Anh gọi Mother, Mommy, những người nói tiếng Pháp thì gọi Mère, Maman, người Trung Quốc thì gọi  Mǔ shẽn (母親) etc.


                                                               Mía lau



[1] Có sách ghi nếp mật
[2] Tục ngữ
[3] Hoa hồng trắng cho ai đã mất mẹ
   Hoa hồng đỏ cho ai còn mẹ
[4] Sông Vị ở Nam định
[5] Nhà Ngô bên Trung quốc rất tàn nhẫn với dân ta
[7] Mẹ của Đinh Quốc Hùng, và là chị ruột của nhạc sĩ Đặng Thế Phong