Sự trưởng thành của thi ca Việt Nam
Qua những tài liệu trên đây, ta thấy cuộc tranh luận
có vẻ gay gắt, quyết liệt vào khoảng từ 1932 đến 1937. Nhưng từ năm 1938 trở
đi, tình hình lắng hẳn xuống. Vấn đề thơ mới thơ cũ, không phải người ta không
nói đến nữa, nhưng người ta nói đến bằng luận điệu khác, ôn hoà chứ không có vẻ
bắt bẻ, chửi bới nhau nữa : người ta vẫn yêu những áng thơ cổ tuyệt tác, và người
ta không ngớt ca ngợi những bài thơ mới kỳ diệu của hàng trăm nhà nghệ sĩ trẻ.
Một điều cảm động nhất là trước đây, ai nấy đều đổ
xô vào mà chửi, mà chê Tản Đà, châm biếm hài hước nhà thơ lúc nào cũng như say
sưa, thì từ năm 1938, nhất là sang năm 1939, 1940 trở đi, Tản Đà được coi như vị
thánh sống của làng thơ. Người ta chia nhau viết về Tản Đà, ca ngợi thơ của
ông.
Nguyên một mình Nguyễn Tiến Lãng đã viết một thôi một
hồi về Tản Đà :
1)- Nửa đời thi sĩ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (Tràng An
số 315, 20-4-1938).
2)- Nửa đời thi sĩ Tản Đà (Tràng An số 317, 3-5-1938)
3)- Nửa đời thi sĩ Tản Đà (Tràng An số 319, 10-5-1938)
4)- Nửa đời thi sĩ Tản Đà (Tràng An số 320, 13-5-1938)
5)- Nhân ngày giỗ Tản Đà (Tràng An số 164, 5-6-1943)
6)- Đọc lại một kỹ thuật nói về Tản Đà (Tràng An số 167, 12-6-1943)
7)- Mùa xuân với Tản Đà (Tràng An số 253, 20-1-1944)
Ngay đến Tự Lực Văn Đoàn trước kia thù hằn Tản Đà,
luôn luôn bông đùa, bới móc Tản Đà vậy mà năm 1939, báo Ngày Nay đã dành không
biết bao nhiêu bài nói về Tản Đà :
1) Thi sĩ Tản Đà do Văn Bình viết (Ngày Nay số 147,
28-1-1939).
2) Công của thi sĩ Tản Đà do Xuân Diệu viết (Ngày Nay số 166, 17-6-1939).
3) Một tháng với Tản Đà do Lâm Tuyền Khách viết (Ngày Nay số 171,
22-7-1939).
4) Vài truyện vui về thi sĩ Tản Đà do Khái Hưng viết (Ngày Nay số 167,
24-6-1939).
5) Cái duyên của Tản Đà cũng do Khái Hưng (Ngày Nay số 166, 17-6-1939).
Báo Tao Đàn, số 9, 1-7-1939, ra số đặc biệt về Tản
Đà :
Lưu Trọng Lư viết " Bây giờ đây khi cái nắp
quan tài đã đậy lại ".
2) Trương Tửu viết " Sự thai nghén một thiên tài ".
3) Nguyễn Tuân viết " Chén rượu vĩnh biệt "
4) Nguyễn Triệu Luật viết " Ảnh hưởng Tản Đà đối với nhà văn lớp sau
".
5) Trức Khê viết " Tản Đà triết học ".
6) Xuân Diệu viết " Một vài kỷ niệm về yêu
thơ Tản Đà ".
7) Nguyễn Xuân Huy viết " Tản Đà dịch văn ".
8) Nguyễn Tuân viết " Tản Đà một kiếm khách ".
9) Nguyễn Công Hoan viết " Ông Tản Đà đi bàn việc để tái bản An nam tạp
chí ".
10) Ngô Tất Tố viết " Tản Đà ở Nam Kỳ ".
11) Nguyễn Nhất Lang " Tản Đà tửu điếm ".
12) Nguyễn Công Hoan viết " Ông soát vé xe lửa với thi sĩ Tản Đà
".
13) Lê Thanh viết " Mộng và mộng ".
Từ cuối năm 1936, sang đầu 1937, nhất là từ 1939 trở
đi, không còn có vấn đề cũ mới nữa mà chỉ có vấn đề nghệ thuật, đẹp hay không đẹp
: người ta đã giải thoát được cái mặc cảm mới cũ.
Lưu
Trọng Lư đặt giá trị đích thực của thơ không phân biệt mới cũ
Một người say mê thơ mới trước tiên, làm thơ mới chỉ
sau có Phan Khôi, và lên tiếng đả kích thơ cũ kịch liệt ngay sau Phan Khôi, người
đó là Lưu Trọng Lư, thì, nay, chính người đó như lơ là với thơ mới quay trở về
dĩ vãng. Cuối năm 1942 sang đầu năm 1943, trên báo Tràng An, Trọng Lư viết nhiều
bài phân tích cái hay cái đẹp của thi ca cổ điển Việt Nam, và công kích sự đi
quá trớn trong việc Tây hoá. Đó là ý kiến Lưu Trọng Lư trong
bài " Đàn Nam giao, một nền văn chương Việt Nam "
(Tràng An số 34, 9-7-1942) :
" Tôi không nhớ vị giáo sư Pháp nào, ở lâu bên
ta, đã nói :" Những thanh niên Việt Nam đào tạo ở trường học mới, không có
một tinh thần sáng tạo chắc chắn ". Lời bình phẩm có vẻ vội vàng, gắt gao
nhưng không phải là không có một phần sự thực. Vì sự thực : cái bệnh ỷ lại là
cái bệnh của ta và dã ăn sâu trong xương tuỷ người nước ta, cơ hồ không gột rửa
được nữa.
" Không phải bây giờ mà từ bao giờ, không phải ở
văn chương mà ở khắp các địa hạt, người Việt Nam đã tỏ ra mình là một giống người
sống lười biếng và cẩu thả.
" Nếu dân Pháp được người ta khen là một thứ
dân " biết sống ", thì dân Nam rất đáng cho người ta chê về phương diện
ấy. Dân Nam cẩu thả và biếng nhát trong sự ăn, sự mặc, sự ở, nhất là trong sự
phô diễn về tư tưởng. Ở đây, tôi chỉ muốn nói đến cái điều cuối cùng này mà
thôi, vì tôi không muốn ra ngoài phạm vi văn học.
" Cái tinh thần lười biếng và cẩu thả ấy đã làm
cho văn chương ta nghèo nàn gần như " không có ". Tự ta, ta không hề
cố gắng và tạo tác ra một cái gì hoàn toàn của ta ; ta chỉ muốn hưởng thụ những
" của sẵn ", và cam tâm làm kiếp con ve của thơ Ngụ Ngôn. Ta đã vay
mượn của người hàng xóm từ một điệu thơ nhỏ nhặt đến một đạo lý cao xa.
" Hồi xưa kia chúng ta là những người Tàu, gần
đây chúng ta là những người Tây, và chưa có một lúc nào chúng ta là người Việt
Nam cả.
" Nếu ông cố đạo kia không có cái ý hay hay, ngộ
ngộ áp dụng vào tiếng ta cái lối viết la tinh, thì ta đến nay có lẽ cũng chưa
có chữ quốc ngữ. Và nền văn học của ta không biết còn nghèo nàn đến thế nào nữa.
" Nhưng ta cũng không nên bi quan lắm, và thứ
nhất là phải hết sức công bình. Cách đây độ vài mươi năm, ở nước ta đã có một
phong trào sùng bái quốc văn, cầm đầu là Phạm Quỳnh tiên sinh.
" Người ta kiểm soát lại các giá trị hiếm có,
và " phát minh " ra truyện Kiều. Người ta mới bắt đầu tin ở mình, tin
ở tài lực mình, tin ở cái thiên tài của dân tộc, tin ở những cái khả năng ghê gớm
của quốc âm. Một tương lai rất mênh mông và rất gần gụi. Người ta hăng hái, người
ta nhiệt thành, nguời ta chỉ xin " cúc cung tận tuỵ " cho quốc văn. Một
sự nỗ lực đáng đánh dấu lại trên cái lịch trình tiến hoá của dân tộc. Nhưng cái
bệnh của nhà Nho ngày xưa vẫn chưa tuyệt nọc : ta vẫn đi vay mượn của người
xưa. Xưa kia người ta vay mượn vì quá siêng năng. Và vì một nguyên lý khác :
Làm cho tiếng Việt Nam được giầu thêm. Nhưng chẳng khác nào người ta đã "
ghép " một giống cây tốt vào một thân cây đã khô héo. Người ta ham vay mượn
mà nhãng quên cái gia tài sẵn có của mình. Phải chăng tại những người lúc bấy
giờ quá sùng thượng truyện Kiều và coi nó là một cái khuôn vàng cho sự đúc nặn
Quốc văn. Mà truyện Kiều, dầu sao ta cũng phải nhận là một tác phẩm chứ thoát
khỏi lề lối Tàu : từ cốt truyện cho đến triết lý cuốn sách, nhất là lời thơ, đầy
những điển cổ Tàu.
" Truyện Kiều là cái thí nghiệm tốt đẹp thứ nhất
của tiếng Việt Nam mà còn bị phải " cố tật " ấy huống hồ là những người
sùng bái truyện Kiều, lấy truyện Kiều làm " kinh nhật tụng ". Không
những người ta không nhìn nhận cái bệnh ấy của truyện Kiều mà người ta còn coi
đó là một sự vẻ vang cho truyện Kiều. Chẳng thế mà ta thấy những nhà chú giải
truyện Kiều bắt những câu thơ hay, hay một cách vô tình và tự nhiên, cũng phải
từa tựa với những câu văn xưa nào ở trong các Kinh truyện Tàu, nghĩa là họ đã cố
làm cho bực thiên tài Việt Nam không sản xuất được một cái gì thật là của riêng
mình, của dân tộc Việt Nam. Họ đã gán cho Nguyễn Du những sự vay mượn mà tiên
sinh không hề làm.
" Theo cái óc của nhà Nho thì một bậc thiên tài
trước hết phải là một " bồ chữ " động một cái gì cũng có thể " dẫn
sách " được. Họ không biết rằng : cái giá trị của mình chỉ có thể có bởi
mình. Và những câu thơ hay đẹp nhất ở trong truyện Kiều lại là những câu thơ
thuần tuý Việt Nam. Những nhà nho chú giải truyện Kiều vô tình đã gây nên một lề
thói rất không tốt cho sự gây dựng quốc văn mà chính họ chủ trương : vô tình
ngưòi ta vẫn khuyến khích sự vay mượn những danh từ, những điển tích Tàu. Họ có
biết đâu rằng tinh thần sáng tạo của ta vì thế trở nên lười biếng và quốc văn
không tiến được như ý nguyện . Cái thời kỳ vay mượn của Tàu đến nay đã qua rồi,
nhưng điều di hại vẫn còn từ nhà nho Tàu người ta trở nên nhà nho Tây. Ta hãy để
lại một bên những người mê say viết Pháp văn ta chỉ nói đến những ngọn bút vẫn
một niềm phụng sự tiếng mẹ đẻ và chỉ nên tiếc rằng : Cũng như xưa, tiếng mẹ đẻ
không được phụng sự một cách toàn vẹn hơn ? Họ là những người học Tây ; họ có
cái khuynh hướng " Âu hoá " những danh từ, những điệu ngữ, cả cái
cách xuất diễn tư tưởng. Họ còn dám làm một việc không thể làm được, họ sửa đổi
cả những tiết tấu thiên nhiên, những âm luật huyền bí của tiếng Việt Nam. Nhiều
khi, việc ấy cũng có thể coi như là một sự cải cách cần thiết, một sự nhu cầu của
cuộc đời mới.
" Nhưng cái gì cũng có một giới hạn : cái giới
hạn đã bị vượt, điều hay lại trở nên dễ dàng một điều rất xấu. Xưa kia, chúng
ta có những chữ sáo rỗng không mượn ở Tàu, thì bây giờ chúng ta cũng lại có những
chữ sáo vô nghĩa dịch ở Tây. Thật là không nên nói, mà thật là có như vậy. Những
ngữ điệu bị " Pháp hoá " đó hay những danh từ bị Việt hoá đó chính
không phải là tai nạn, mà chỉ chứng tỏ một cái bệnh về tinh thần, nguy nan hơn
: Chúng ta đã cảm xúc, đã tư tưởng theo người Tây. Cái hình thức kia chỉ là kết
quả đương nhiên của biến đổi của một tâm hồn. Trong một bài nói đến thơ Xuân Diệu,
tôi có tự hỏi :" ...đã từng ở giữa những xóm dừa, ăn rau sắng, ngửi mùi
lúa ngự, ta có thể nhất đán trở nên một người Tây, một người Tây thành thực và
trọn vẹn được không ? ". Ở đây, ta hãy thí dụ là có thể được nữa, nhưng đó
không phải là một cái lý để " âu hoá " nền văn chương Việt Nam. Nền
văn chương ấy nếu nó đã có thì nó phải có mãi, và phải độc lập mãi mãi, đứng
riêng ra một địa vị ngoài sự chi phối của chính trị hay kinh tế. Chúng ta có thể
mất hết, trừ văn chương. Và chúng ta chỉ mất " văn chương " khi ta muốn
" ngoại hoá " nó đi mà thôi, nghĩa là muốn lột hết những tính cách
riêng của nó.
" Với sự " âu hoá ", tôi sợ nền văn
chương Việt Nam sẽ mất những tính cách riêng, rồi sẽ không thành thực nữa vì bị
" mất gốc ". Mà sự " mất gốc " ở địa hạt văn chương rất
nguy hiểm. Văn chương không cần phải có những sự phiêu lưu nguy hiểm mới to lớn.
Điều trái lại có lẽ đúng hơn. Một ngày rời khỏi khí hậu, cái cây ấy sẽ héo
ngay. Nó phải hút chất màu ở ngay chỗ nó mọc. Thật ra nhiều khi nó cũng có thể
mang trồng qua chỗ khác được ; nó cũng vẫn sống như thường.
" Cây cam Xã Đoài dời qua làng cạnh nó vẫn sống,
nhưng không còn là cây cam xã Đoài nữa. Văn chương Việt Nam chỉ có thể có giá
trị khi nó là văn chương Việt Nam mà thôi.
" Chúng ta là lớp người cuối cùng được dự xem một
thế giới đương suy tàn : Cái cuộc đời Việt Nam đương trỏ nên một cuộc đời
khác...Đó là ta muốn gọi là một sự tiến bộ cũng được, nhưng khi trèo bước tới một
cuộc đời quốc tế đó, ta phải nhận rằng : cái gì sâu xa, chân thật trong tâm hồn,
trong cuộc đời Việt Nam đã rơi rụng hết, để nhường chỗ cho những cái khác ở
ngoài vào...Đó có thể là một sự rất may mắn cho cuộc sinh hoạt của cả dân tộc,
nhưng là một điều rất không may cho văn chương. Cái nhiệm vụ của nhà văn Việt
Nam trong lúc này thiệt là nặng nề mà cũng thật rõ ràng : được chứng kiến một
giai đoạn độc nhất trong lịch sử, nhà văn Việt Nam với sự tai nghe mắt thấy
trong giờ phút này phải tạo tác ra một nước Việt Nam trong văn chương.
" Một nước Việt Nam còn ngân mãi bởi những câu
hát đúm của các cô gái quê, còn sống mãi bởi cái phong vị say sưa của các cô
gái quay tơ (vì cái chế độ đại kỹ nghệ sắp làm chết cái nghề tầm tang đầy thi vị)
và lưu giữ mãi bởi cái này và cái kia đã làm nên những cái đặc sắc của một nền
văn chương.
" Nhà văn Việt Nam trong lúc này có cái sứ mệnh
phải tiếp tục quá khứ, và truyền giao quá khứ ấy lại cho hậu lai, làm cho người
Việt Nam bất diệt trong tinh thần, trong tư tưởng.
" Xưa kia ta đã sống một cách rụt rè, lười biếng.
" Đã đến lúc ta phải siêng năng trong sự phô diễn
tư tưởng cố gắng trong sự sáng tạo. Với những tài liệu hoàn toàn Việt Nam, ta
sáng tạo lại những cảnh đời Việt Nam sắp sụp đổ.
" Tôi cầu nguyện cho sớm xuất hiện một cuốn thơ
hay một cuốn tiểu thuyết xây dựng với những tài liệu lấy ở đất nước và một
thiên tài của xứ sở, một cuốn thơ hay là một cuốn tiểu thuyết có thể nói với
thiên hạ rằng :" Đâylà một tác phẩm của người Việt Nam, một giống người đã
nghĩ và đã cảm ".
" Cái tác phẩm mong mỏi ấy, ta phải can đảm mà
nhận rằng hiện nay ta chưa có, nhưng rồi ta phải có - nếu quả Trời chưa muốn nước
Việt Nam ta phải diệt hẳn ở trong tư tưởng của người đời ".
Trên Tràng An số 69 (3-10-42) Lưu Trọng Lư viết
bài " Sự hài hước trong dân chúng Việt Nam ", lên tiếng cực
tán nền văn chương dân gian, một nền văn chương thuần tuý dân tộc, không chịu ảnh
hưởng Tàu hay Tây.
" Nước ta là trong những nước có một nền phong
tục thuần nhã và trang nghiêm vào hạng nhất. Ảnh hưởng Khổng giáo với một luân
lý chặt chẽ đã đi sâu vào tâm hồn mỗi chúng ta ; những khuôn phép, lề lối đã
làm cho ông cha chúng ta trở nên những trang văn nho lễ độ và đài các.
" Văn chương vì vậy lúc nào cũng đượm một vẻ
nghiêm nghị, thận trọng, và nhà văn sĩ hay thi sĩ trước nhất là một nhà đạo đức.
Người ta ít tìm thấy những cử chỉ hài hước, bông lơn. Hồ Xuân Hương là một ngoại
lệ.
" Nhưng đó phải chăng là tính cách đặc biệt Việt
Nam. Văn chương ấy là do một số thượng lưu, tinh ba trong nước, được thấm nhuần
văn học, những lời lẽ của Thánh Hiền. Họ là số ít. Ta phải đi xuống thấp hơn, đến
những hạng người mà sách vở là non sông, cây cỏ, những người chỉ được học trong
quyển sách thiên nhiên : đất đai, đồng ruộng, là nơi họ sống - Tôi muốn nói đến
bình dân - Chỉ có bình dân là hình ảnh rõ rệt của một dân tộc...Chỉ ở đó ta mới
nhận thấy tâm hồn chất phác, tự nhiên nẩy nở, không bị ràng buộc bởi những tục
lệ quá cầu kỳ.
" Đó ta thấy họ ca tụng ái tình, họ biết yêu,
và không dấu diếm cõi lòng.
" Cả một văn chương chân thật, cảm động, súc
tích trong những câu ca dao mộc mạc,mà bà mẹ hát ru con hay đứa mục đồng nghêu
ngao trên lưng trâu giữa những lề ruộng um cỏ, trong những câu hò bên sông,
trong những điệu hò khoan, mà ta đã nghe trong những cuộc giã gạo dưới trăng,
giữa những làng quê bình lặng, hay trong những truyện cổ tích mà ta đã được
nghe bà hay mẹ kể lại cho.
" Tôi để riêng những tính cách đạo tình - người
ta đã nói nhiều - tôi, chỉ nói riêng về tinh thần hài hước. Họ châm biếm nhau
trong những lời hát ứng khẩu giữa trai gái...Đây ta thấy người dân Việt Nam
ranh mãnh, lanh trí, nhận xét rõ ràng về thực tế, thấy rõ những tật xấu, tính
hư của người bên cạnh và rất sẵn lòng nêu ra cho kẻ khác thấy. Thực họ cũng hơi
ác thật...Đây là người học trò " dài lưng tốn vải " bị diễu :
" Nhất sĩ nhì nông, không gạo chạy rông, nhất
nông nhì sĩ ".
" Đây người trọc phú hà tiện bị đem ra làm trò
cười, đây một ông già có hầu non, đẹp bị họ chế nhạo...
" Nhưng những tính cách ranh mãnh, mồm mép, đùa
bỡn, hơi cay nghiệt ấy không đâu rõ rệt bằng trong một bộ sách - ta có thể gọi
đó là một bộ sách, dầu không ai biết nó dầy mỏng bao nhiêu - một bộ sách mà ít
người để ý đến, tuy nó rất có giá trị để hiểu biết rõ ràng tâm lý của người Việt
Nam dân giả...Quyển sách đó, có lẽ là quyển sách hài hước bực nhất trong tất cả
các văn chương, là quyển " Tiếu lâm ". Và đó có lẽ là bộ sách đặc biệt
Việt Nam nhất.
" Tương truyền rằng tác giả Tiếu lâm là một người
học trò thi mãi không đậu, phẫn chí, viết ra để công kích, chế diễu thiên hạ.
Khi làm xong, vì châm biếm tất cả trời đất nên lăn ra cười rồi chết...Tuy
nhiên, đó không phải là công việc của một người. Nó cũng như ca dao ngạn ngữ,
là của chung của nhiều người, lần hồi truyền tụng cho nhau.
" Người ta đã buộc nhiều về " Tiếu lâm
". Nhưng tại sao lại bắt người ta phải dấu diếm những cái mà lòng họ nghĩ
ra...Người ta thường nói đến tính cách quá sỗ sàng, hay cứ nói thẳng...tục tằn
của bộ sách ấy, - nhưng nó là cái biểu thị dĩ nhiên của những hạng người sống tự
nhiên giữa ruộng lúa, giữa khoảng đất rộng trời cao, không bị một bó buộc tinh
thần nào cả.
" Nhưng nếu công việc của " Tiếu lâm
" là làm cho cười, những câu chuyện cỏn con, lý thú ấy đã rất thành công.
Cái cười tuy thô tháp, nhưng nó là cái cười nở trên những cặp môi bình dị, tự
nhiên, nó không như chiếc hoa tỉa vẽ, uốn nắn trong những chiếc chậu kiểng xưa,
nó là cây đại thụ bao quát cả một khoảng non sông.
" Ta đã nói bộ " Tiếu lâm " cho ta biết
rõ tâm lý của người dân Việt Nam. Trước hết đó là một người vui vẻ, thích diễu
cợt, bông đùa. Họ lại rất tỉ mỉ về khoa nhận xét...vạch rõ những bí ẩn của những
đời tư...của ái tình...Và họ cười...Họ cười không phải để cải tạo xã hội, để sửa
sang tính nết của người họ cười, theo như quan niệm của nhà triết học, họ cười
vì họ ưng cười...Nhưng cái cười ấy có vẻ chua cay lắm. Họ nhận xét quá rõ ràng
thành ra họ không còn tin tưởng gì nữa. Họ không tin đến cả ái tình, mà ta cho
là thiêng liêng, đáng quí.
" Từ chỗ thiếu tin tưởng, họ đến chỗ không biết
kính nể ai cả. Cả đến trời đất, quỷ thần họ cũng đem ra châm biếm...
" Sự dĩ nhiên đó không phải là tánh tốt, nhưng
đó là sự thật.
" Và cũng như bài ngụ ngôn của thời phong kiến
Pháp (Roman de Renart, Les Fabliaux) ta không nhắc đến thơ của La Fontaine, vì
đó là văn chương, lời lẽ quá đẹp, ý tứ quá sửa sang, khuôn phép là tinh thần của
người dân giả Pháp... " Tiếu lâm " là hồn của dân giả Việt Nam.
" Ta có quyền khinh họ, nhưng ta phải công nhận
rằng họ không dối lòng họ. Việc gì phải che đậy những cái không đáng che đậy.
Tuy nhiên tôi không khuyên đọc " Tiếu lâm
", biết đó là những sự thật nhưng có những sự thật ta không cần biết đến.
Và ta chỉ nhắc đến tên " Tiếu lâm " để biết rằng nước ta không phải
thiếu tinh thần hài hước " (Tràng An số 69, 3-10-1942).
Tràng An số 107 (5-1-43), Lưu Trọng Lư nói về Nguyễn
Công Trứ và coi ông có một cái gì chưa từng có ở trong văn chương Việt Nam, một
nguồn cảm hứng mau lẹ, quả quyết như một đạo cảm tử :
" Nguyễn Công Trứ không chỉ là một thi sĩ của
Quốc gia, mà còn là một bậc công thần xứng với nền Quân chủ, một nhà nho xứng với
Thánh đạo, hơn thế nữa, một võ tướng có thao lược, một nhà chính trị có tài
kinh luân, một người có tiết tháo. Cái sự nghiệp của tiên sinh ai cũng biết rõ,
không cần phải nhắc lại nữa. Ta chỉ nên ký nhận rằng trên tâm hồn của tiên
sinh, trên thân thể của tiên sinh, đã un đúc, đã tụ kết lại bao nhiêu cái hay,
cái đẹp, cái hùng, cái mạnh của cái tinh hoa chủng tộc.
" Thật là sự điều hoà của những cái tương phản
nhau : sự điều hoà của Mộng với Thực, cái ngông cuồng của một kẻ lãng tử, với
cái nề nếp của một nho sinh, và cuối cùng là một sự điều hoà của thơ văn với Khổng
giáo. Nguyễn Du muốn là người bạn hoàn toàn của thơ văn, đã phải lảng Nho mà
theo Phật...Nguyễn Công Trứ vẫn ở trong cái phong khí khắc khổ của Nho, mà vẫn
khoáng dật thích thảng như một đồ đệ của lão Trang. Tiên sinh vừa hành binh, trị
nước, vừa ngâm hoa vịnh nguyệt mà cái này không hại đến cái kia.
" Thành thực ta phải nhận rằng Nguyễn Công Trứ
không có cái nghệ thuật điêu luyện của Chu Mạnh Trinh, Nguyễn thị Điểm, không
có cái tâm hồn uyển chuyển của Nguyễn Du, hay cái giọng điệu dễ dàng của Hồ
Xuân Hương, nhưng ở trong thi văn của Nguyễn Công Trứ, một cái gì chưa từng có ở
trong văn chương Việt nam - một nguồn cảm hứng mau lẹ, quả quyết như một đạo cảm
tử. Cái thể ca trù nhờ pháp thần của Nguyễn Công Trứ đã trở nên một thể cách
hoàn toàn Việt Nam, rất thích hợp với sự diễn xuất hùng mạnh...Tôi nhớ như có một
lần ông Huỳnh Thúc Kháng ví cái điệu thơ ấy với thuỷ triều - thật không phải là
một lời nói vu vơ. Điệu ca trù còn hơn là một sức mạnh nữa. Nhưng khi những bài
thơ ấy, ngâm lên với điệu phách nhịp đàn, thì ta lại thấy nó có một vẻ hào
phóng vừa trả lời vừa kín đáo, vừa gắn bó, vừa sỗ sàng. Nó là một thứ sản vật
hoàn toàn Việt Nam, nó phải lâu dài với đất nước. Một ngày kia, năm bảy trăm
năm sau, trong cái đám hậu lai man mác, nếu có một người nào còn ngâm được một
bài ca trù của Nguyễn Công Trứ chẳng hạn, tôi tin rằng người ấy có một mối u sầu
nặng bâng khuâng nhớ tiếc một thời khoáng dật to nhớn, rộng rãi và kiêu sa. Cái
thời buổi của những nhà nho tuy vẫn nhọc nhằn cặm cụi với nhân sinh, nhưng cũng
là những kẻ " bốc giời " phung phí mà không tiếc tay, những kho tàng
vũ trụ, những kẻ biết sống mà cũng biết chơi, biết làm trọn nghĩa vụ mà cũng biết
rõ cái đùi non mà giốc hớp rượu cuối cùng...
Cho nên sau một cuộc đời sóng gió, hoạt động, Nguyễn
Công Trứ hàng ngày thường thắng một cái xe bò mà ngao du sơn thuỷ. Đó cũng chỉ
là để tỏ một lần nữa rằng : sau khi là một bậc công thần, một tay thao lược, một
kẻ " chiến sĩ ", Nguyễn Công Trứ ung dung và thích thảng, đánh xe đi
ra ngoài cõi thế, vừa phẩy quạt vừa mỉm cười, để đùa với cuộc đời, đùa với số mệnh.
" Nguyễn Công Trứ vào đời nghiêm trang như đức
Trọng Ni, ra đời hiền vui như thầy Trang Tử. Không phải chỉ là một thi nhân
đáng lưu truyền hậu thế, mà là một quan niệm về nhân sinh đáng truyền bá ra giữa
cuộc đời âu tây chật vật.
" Một người như Nguyễn tiên sinh, khi là một vị
đại thần, rồi khi chỉ còn là một tên lính nhỏ, rồi từ một tên lính, lại nhẩy
lên một địa vị tướng quân, đánh Nam dẹp Bắc, cho đến khi về già thắng một cái
xe bò, và cô hầu non, ngao du khắp chín mươi chín đỉnh Hồng sơn, mà người như
thế hẳn có thể dạy ta được một cái gì mới về sự sống của con người. Thật là
" Lãng mạn ", thật là ngông nhưng mà người ấy đã là một kẻ giúp đời,
và có công lớn với Tổ quốc. Nguyễn Công Trứ đã tỏ ra cho chúng ta thấy rằng :
văn chương và hành động là hai điều biệt lập, và một tâm hồn lãng mạn cũng
không thể hại đến chí chiến đấu, nếu quả người ta muốn chiến đấu " (Tràng
An, số 107, 5-1-1943).
Hán
Quỳ ca ngợi Thế Lữ, Huy Thông, Nhược Pháp
Trên Tràng An số 108 (24-3-1936), Hán Quỳ ca ngợi Thế
Lữ, Huy Thông, Nhược Pháp mà ông coi là giống Lamartine, giống V. Hugo, giống
Musset :
" Những cuộc cãi nhau về " thơ cũ "
và " thơ mới " đã qua. Nay chúng ta chỉ biết có thơ. " Thơ mới
" chỉ là một hình thức của Thơ để diễn tả những tính tình và cảm giác của
tâm hồn người ta ở thời đại mới.
" Thơ mới " đã đứng vững với tác phẩm giá
trị của những thi sĩ có tài : Thế Lữ, Huy Thông, Nhược Pháp.
" Cũng ba tên ấy gợi cho tôi ý viết bài này.
Đây tôi không phê bình. Tôi chỉ là một người yêu thơ, ham đọc thơ nói chuyện
cùng các bạn những điều hay hay mình đã thấy.
" Xem thơ của ba thi sĩ trên kia, trong trí tôi
nẩy ra một sự so sánh : Thi ca Việt Nam vào hồi này cũng tựa như thi ca nước
Pháp vào khoảng 1830. Tôi không nói Thế Lữ, Huy Thông, Nhược Pháp giống đủ
phương diện những thi sĩ Pháp hồi đó. Nhưng phong trào thơ bên Pháp hồi 1830 và
thơ ta bây giờ có chỗ so sánh được.
" Với Lamartine, thi ca lãng mạn xuất hiện.
Lamartine đem lại cho văn chương Pháp một lối thơ mới về tình cảm và âm điệu, hợp
với tâm hồn người đương thời, nên được công chúng cực lực hoan nghênh. Cái buồn
vẩn vơ, nỗi ước ao một đời cực lạc, những tiếng than não nuột trong thơ
Lamartine đã làm " mê " cả một xã hội. Nhưng bên cạnh thi sĩ cái hồi
đó người ta đã để ý đến một thi sĩ trẻ tuổi khác. Victor Hugo trong hai tập Odes
et Ballades và Les Orientalesđã từ thơ ly tao đi đến thơ hùng tráng.
Buồn vẩn vơ và mơ ước cuộc đời lý tưởng cùng Lamartine người ta theo trí tưởng
tượng của Hugo sống lại thời xưa mãnh liệt cùng những cảnh lộng lẫy của "
phương đông ". Đến năm 1830 Musset bước lên văn đàn, cười rộ. Tập Contes
d'Espagne et d'Italie của ông là một tiếng cười hóm hỉnh và tinh quái lẫn
giữa giọt nước mắt não nùng của Lamartine và những cảnh rực rỡ oai nghiêm của
Hugo.
" Ba thi sĩ đi ngang nhau làm thi ca Pháp rực rỡ
một thời.
" Nhưng ta hãy để công việc phê bình ba thi sĩ ấy
cho nhà văn học sĩ nước Pháp...
" Mỗi lúc đọc thơ Thế lữ, tự nhiên tôi nghĩ đến
Lamartine. Cũng như nhà thi sĩ Pháp, Thế Lữ bắt đầu một kỷ nguyên mới về thi
ca. Ông Hoài Thanh đã bàn rõ điều này trong một bài phê bình thơ Thế Lữ. Tôi chỉ
nhắc qua rằng : Lamartine là thi sĩ xã hội Pháp mong đợi sau những cuộc binh lửa
khắp Âu Châu dưới triều Napoléon 1er , cũng như Thế Lữ đã " ru " người
ta " dạy cho cả một thời đại yêu " (Hoài Thanh), kiếm sự an ủi trong
tình yêu và mơ mộng, tìm một lý do để vui sống sau những vụ đổ máu năm 1930.
Thanh niên ta hồi đó đang bỡ ngỡ trước những tấn kịch thảm khốc dễ làm họ chán
đời vì chán nản. Thi sĩ Thế Lữ kịp thì ra an ủi họ. Những bài thơ đầu của Thế Lữ
đăng ở báo Phong Hoá được người ta hoan nghênh cũng như tập Méditationscủa
Lamartine được dân chúng Pháp ca tụng hơn một trăm năm về trước (1820).
" Nếu thơ Thế Lữ " ru " người ta thì
thơ Huy Thông mạnh mẽ và mới lạ hơn. Ông Lê Tràng Kiều đã ví Huy Thông nhà thơ
ly tao và hùng tráng với V. Hugo. Sự so sánh ấy tôi tưởng đúng lắm từ cái tuổi
cho đến cái tài và nàng thơ " Siêng năng " của thi sĩ Phạm Huy Thông.
" Như Alfred de Musset, Nguyễn Nhược Pháp đã
dám cười khi người ta đang mơ màng theo Thế Lữ hay hậm hực như mang hận chiến
sĩ theo Huy Thông Musset nói truyện Y Pha Nho, Ý Đại Lợi thì Nhược Pháp kéo
chúng ta về " ngày xưa ", ngày xưa cũng là một xứ lạ đối với hiện tại
của nước ta. Trong cảnh lạ và khác ấy, thi sĩ Nhược Pháp ấy xen lẫn nụ cười của
ông, nụ cười " hóm hỉnh " và có duyên rồi ông giục chúng ta cười
theo...
" Chỗ giống nhau giữa thi ca nước Pháp một trăm
năm về trước vần thơ ta hiện giờ không làm tôi ngạc nhiên. Văn chương lãng mạn
Pháp ảnh hưởng sâu xa đến văn chương hiện đại của ta. Vả lại thi ca ta cũng ở
vào một trường hợp giống như thi ca Pháp vào hồi 1820-1830.
" Thế Lữ, Huy Thông...cũng là những nhà thơ
lãng mạn thành thử đối với Pháp về thi ca ta sống thụt lùi một thế kỷ. Sự chậm
trễ đó không có gì đáng trách vì ta theo gót người - nếu có thể nói được như thế.
Mà trách sao được ? Chúng ta không có quyền kết án thơ lãng mạn. Tuy thế, xã hội
ta ngày nay không phải là xã hội Pháp hồi năm 1830. Ta không thể cấm đoán thi
sĩ lãng mạn, mơ màng song ta có quyền mơ ước : ngoài những giờ mơ màng đắm say
trong giấc mộng các thi sĩ nên nhìn cảnh đời xung quanh mình mà ca lên cho ta
nghe những bài ca nói đến người nghèo, đứa con ghẻ xã hội, một thi sĩ có chân
tài thì dù trong giấc mộng đẹp đẽ hay trước một cảnh thực tế thảm khốc dơ dáy,
cũng tìm được những vần hay ý mới. Cuộc đời hàng ngày là một kho tài liệu cho
thi ca, cho thi ca lãng mạn nữa.
" Về tiểu thuyết ta đã có những quyển
như Kép tư Bền của Nguyễn Công Hoan, Giông Tố của Vũ Trọng
Phụng. Ta cũng mong các thi sĩ vẽ cho ta đọc những bài thơ nói đến sự thực gần
ta như thế " (Tràng An, số 108, 24-3-1936).
Xuân
Phương ca ngợi tập Xác Thu của Hoàng Điệp
Bây giờ không còn phải là lúc một tờ báo chỉ bênh
thơ mới hay thơ cũ nữa. Trên mặt báo Tràng An, nhà thơ mới Lưu Trọng Lư, bỏ thơ
mới, quay về dĩ vãng, ca ngợi, phê bình thơ cũ. Cũng trên mặt báo Tràng An nhiều
người vẫn tiếp tục tán dương thơ mới của nhiều nhà thơ mới, có điều họ không
khen thơ mới như là thơ mới mà chỉ khen như là thơ hay, thơ có giá trị không đả
động gì đến mới hay cũ.
Xuân Phương, trên Tràng An số 314 (22-4-38) phê bình
và ca tụng ba tập thơ : Hận chiến trường, Điêu tàn, Xác thu là ba tập
thơ ra đời năm 1937 :
Với tập Xác thu,ta không phải theo ông Hoàng Điệp
ra bãi chiến trường đầy cả xương, tanh cả máu, hay bay lên cung Hằng để nghe
ngóng hơi thơ của muôn tiên, để hớp lấy giòng trăng đương chảy. Ta chỉ nhẹ bước
theo sát ông, nhập vào ông để cùng ông nuốt lấy cái Đau thương, vồ lấy cái Chán
nản trong người ông. Ta hãy nghe tim ông hồi hộp, hồn ông rung chuyển khi mùa
thu tới :
Tất cả mùa thu vàng xám lại
Chán chường cũng lại giết hồn tôi
(Xót xa)
Và trong lúc ông thất thểu đi tìm lại cái linh hồn
trong sạch ngày xưa, ông chỉ thấy trơ vơ những xác chết trên vệ đường : Hẻo
lánh bên đường ít quán tranh.
Nầy đây sắp sửa lá xa cành
Vài ba cánh cửa không buồn mở,
Khói nhẹ lan chùm cỏ xám xanh
(Xác thu)
" In hình như ông Hoàng Điệp bị hoàn toàn thất
bại trên đường tình, nên ông chỉ lấy cái Đau khổ làm Nàng Thơ để ôm ấp, nâng
niu trong những đêm buồn nản ông đã quá tàn ác mà đặt tên người yêu ông là Nàng
Đau đớn để kêu gọi, van xin :
Hỡi nàng Đau đớn của ta ơi !
Khổ lắm, cho ta một nụ cười,
Hãy nắm tay ta thêm chút nữa
Để truyền cảm giác xuống đầu môi.
(Đau đớn)
" Nhưng càng van xin chừng nào, người yêu ông vẫn
không buồn trở lại, nàng vẫn là một hình ảnh đau xót trong trí tưởng tượng của
ông mà thôi :
Anh chỉ yêu em...ngồi xích lại
Cho anh gạn hỏi một đôi điều,
Cho anh lọc hết giòng cay đắng
. . . .
Có phải em là : xác quạnh hiu.
(Đau đớn)
" Từ cái buồn rướm máu ở đáy lòng ông cho tới
cái buồn bao la của vũ trụ, của những buổi chiều vàng úa, của một đêm trăng nhạt
nhạt, ông đều tả ra với những lời thơ thật dễ thương và mới lạ :
Trong tôi :
Mặt trăng mờ nhạt.
Ngôi chùa đổ nát
Con đường quạnh hiu.
Một buổi chiều,
Tôi đón lời tiêu,
Tôi đưa lá chết
Tôi nhìn đám tang,
...Xác thu vàng !
(Đám tang)
" Với ông Hoàng Điệp, ta được thấy những khung
cảnh nho nhỏ, xinh xinh và bao gồm được lắm ý nghĩa sâu xa.
Ai đi nhặt tiếng vàng rơi
Trong trăng trong gió, trong người, mùa Thu.
" Ta cũng đủ hiểu tác giả muốn đi tìm những tấm
ảnh tầm thường, giản dị và diễn tả được cái tầm thường " Không màu sắc
" ấy, là tài riêng của ông Hoàng Điệp.
" Mùa Thu của ông mới và lạ lắm, đầy những lá
vàng đẫm máu, vang dậy cả tiếng lòng u uất, hình ảnh của một đời tình đau khổ
(Nếu tôi không lầm).
" Về nghệ thuật, tập Xác Thuhẳn có phần
kém hơn hai tập Hận chiến trườngvà Điêu tàn. Những lối thơ tám
chữ của ông Hoàng Điệp cần phải sửa đổi thêm nhiều.
" Nhưng nói về ý tứ sâu xa để giải phẩu tình
yêu, nói đúng hơn, một mối tình tuyệt vọng, tràn cả mùi " xót xa ", cả
vị " cay đắng ", tập " Xác Thu " sẽ là một tập
thơ có giá trị riêng về chỗ đó.
Xuân
Phương ca ngợi Hận Chiến Trường của Thanh Tịnh
" Ông Thanh Tịnh với tập Hận chiến trường đã
tả hết sự tàn ác của chiến tranh, đã níu hồn ta lại những nơi tràn cả thây người,
nặc cả mùi tanh của máu xương và sặc sụa cả hơi thuốc súng. Có lúc ông lại nhịp
đàn lòng theo điệu trầm bổng của một chiều mong đợi, của nỗi niềm thương tiếc
dưới bóng trăng chênh, hay là một linh hồn " Lạc lối giữa thành sầu mù mịt
".
Xuân
Phương ca ngợi Điêu Tàn của Chế Lan Viên
" Giữa lúc ấy, ông Chế Lan Viên lại ranh mãnh
hơn, gan dạ hơn. Ông sụy xuống mồ vô tận để đánh thức yêu ma. Ông bay lên nguyệt
điện để sai biểu tinh tú. Ông lang thang đi tìm người chiêm nữ lúc ẩn lúc hiện
trong đêm biếc, giữa dòng trăng. Ông điên hẳn lên, ông không phải là ông nữa,
ông là cái sọ dừa vỡ rạn, ông là đám dân chiêm sống lại, ông là muôn sao đang
chới với, ông là máu, là xương, là tủy, là trăng là mây, là gió vv...
" Ông Hoàng Điệp lại thầm kín, rụt rè quá. Ông
không dám bước nặng, ông không dám la to, vì ông sợ phải lay đổ cả, cái im lặng
đầy bí mật của đêm thâu của khói hương bay, của làn sương mỏng. Ông đi nhặt những
mảng trăng rơi lả tả trên tà áo của thiếu nữ, ông ngừng hơi thở để nghe những
xác cây nẩy nở những lời thán oan của chiếc lá lìa ngành. Ông lại một mình lẳng
lặng xây đắp trong hồn ông một cảnh thu kết bằng lá Đau Thương và Cảnh Chán Nản.
" Các thi sĩ thường sung sướng hay đau khổ và
thường sống trong những cảnh tưởng tượng. Họ sống riêng trong những thế giới
riêng của họ. Nhưng thế giới ấy là bãi Chiến Trường của ông Thanh Tịnh, là cái
tháp điêu tàn của ông Chế Lan Viên, là những xác lá chết của ông Hoàng Điệp.
" Nói tóm lại, làng thơ năm 1937 đã hiến cho ta
ba viên ngọc quí :
" Hận chiến trường, Điêu tàn và Xác
thu " (Xuân Phương, Tràng An, 22-4-1938, số 314)
Lương
An ca ngợi Lửa Thiêng của Huy Cận
Lương An, trên Tràng An số 12 (tháng 3 năm 1941) ca
ngợi Lửa Thiêng của Huy Cận và nhìn nhận có một nguồn thơ bất diệt :
" Đọc những bài thơ này, người ta ngỡ đâu như đọc
bài " Premières Solitudes " của Sully Prudhomme, tả bọn học trò còn
nhỏ phải đưa vào trường, đêm khuya nhớ nhà ôm nhau mà sụt sùi.
" Tuy nhiên cái đời học sinh trẻ thơ ấy có bao
giờ lâu dài được đâu, người ta chỉ có thể vô tư vào độ hai mươi trở xuống ; từ
tuổi ấy trở lên người ta đã bắt đầu bước vào cuộc đời và nhấm vị chua cay của
nhân tình thế sự. Tâm trí, hoài bão, ý niệm người ta cũng đổi khác đi. Lúc này
là lúc phải lo âu, phải suy nghĩ để tìm lấy một xu hướng.
" Thi nhân của ta cũng thế. Tuy sự thay đổi
trong đời chàng chỉ là một sự thay đổi không khí cỏn con nhưng cái tuổi không
cho phép chàng ngây thơ như trước nữa. Bởi lẽ ấy người ta bắt đầu thấy Huy Cận
buồn buồn. Mối buồn của thi nhân bao giờ cũng là một mối buồn vô hạn. Huy Cận
cũng trở nên thi sĩ của tình cảm thống thiết, cũng tham lam đòi hỏi tình yêu,
nhưng chàng thực chưa nặng tình cùng yêu mến như " Bạn chàng Xuân Diệu
".
" Chàng cũng yêu tất cả, nhớ tất cả. Tâm hồn
chàng là một khu vườn cũng theo mùa mà nở hoa hoặc hiu quạnh. Tâm hồn chàng bây
giờ là đối tượng của những hiện tượng của thời tiết. Một điều đáng chú ý là cái
nhớ của chàng rất đỗi mênh mông và ôm trùm cả vũ trụ.
" Nuôi một mối tình muôn dặm, yêu vẩn vơ một
nàng cỡi ngựa trong rạp xiếc, nằm trông lên thả mộng ra khắp phương trời, nếu
không phải chàng Huy Cận đang độ vô tư lự thì là ai nữa ! Những hành động thơ
ngây, những mối tình trẻ trung ấy phải là của một chàng thi nhân sống ngoài
nhân tình thế sự ; chàng thi nhân ấy nếu không phải Huy Cận thì là ai nữa !
Nhưng ngày thơ ấu ấy bây giờ không còn nữa. Bây giờ là độ thanh xuân chạm trán
với cuộc đời, bây giờ là lo âu, là nghĩ ngợi. Bắt gặp cảnh biệt ly mà sầu, đi
giữa đường thơm mà lo tình mất, thấy dấu chân trên đường mà thẩn thờ, nghe mưa
rơi lác đác mà buồn buồn, chao ôi, sao lòng chàng thi nhân của ta thiết tha và
dễ cảm xúc đến thế.
" Sở dĩ Huy Cận buồn thương như vậy là vì chàng
lo sợ một ngày rất gần hạnh phúc sẽ không cười duyên với chàng nữa, mà chàng
thì ham sống và tin vào cuộc đời quá. Chàng sầu vì tâm can chàng bắt chàng phải
thế. Đó là một trong những lý do đã đưa chàng lên lầu thơ bất tuyệt. Mối sầu của
chàng có thể cho là một mối sầu vạn cổ.
" Từ đây Huy Cận là một con người nặng tình
sông núi, cảm gió sầu trăng. Bây giờ chàng đã thấy những sự mâu thuẫn của đời
nên thơ chàng cũng rẽ vào lối " đoạn tràng ". Chàng chạy theo rõi một
mối tình mất mà thương tiếc ; Chàng ngậm ngùi khi nắng chiều xế vàng trên bãi ;
chàng nhớ nhà vì một cảnh tràng giang ; chàng ngơ ngẩn khi bắt gặp một cảnh thu
trên núi rừng ; chàng thẫn thờ sau một cái xe tang ; chàng đau khổ khi nghĩ đến
một ngày sắp tới người sẽ mất hết linh hoạt để " bước vào mồ nhỏ tí "
Chàng đã bị những sự mắt thấy tai nghe hàng ngày cảm hoá và làm cho xúc cảm nhiều
quá. Ý nghĩ của chàng chỉ quanh quẩn trong cõi sầu thương ; chàng là thế đó, trọn
một đời thương nhớ và hồn bị thiên hạ bỏ đìu hiu ; chàng than thở với Thượng Đế,
đã làm ra thân thể con người để đau khổ và để làm nên tội lỗi.
" Huy Cận sinh ra với một tấm linh hồn đơn chiếc,
đa sầu đa cảm. Chàng than van không có bạn bè tri kỷ, chàng đi bơ vơ trên đường
đời âm thầm và đau đớn. Tình yêu không lưu luyến chàng, mọi việc gợi ra trước mắt
chàng sự ê chề, sự chán ghét. Tất cả những nguồn sống ở đời đối với chàng đơn
sơ quá nên không thể làm cho cái tinh thần sinh hoạt của chàng (vie
intellectuelle) đầy đủ được.
" Tả một phong cảnh tráng lệ biết bao. Mây đun
núi bạc chim nghiêng cánh nhỏ, nhẹ nhẹ ánh chiều sa, tưởng ngần ấy cũng đã đầy
đủ như một bức tranh của một họa sĩ tài hoa. Chính thi nhân cũng nhận rằng cái
cảnh tràng giang ấyđã làm cho mình ca tụng và mê mẩn. Ta hãy nghe thi nhân nói
cảm giác của mình :
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
" Ngày xưa, Thôi Hiệu đứng trước cảnh lầu hoàng
hạc mà ngậm ngùi và thấy khói sóng trên sông mà nhớ nhà.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Nhưng ở đây, Huy Cận thấy trời nước mông mênh quá
tráng lệ quá mà nhớ nhà. Vì lẽ ấy mà cảnh không tang thương, lòng không hoài cổ,
sông không đùn sóng mà cũng ngậm ngùi mối tình lữ thứ.
" Tả một buổi chiều xuân, Huy Cận viết :
Hai hàng cây xanh
Đâm chồi hy vọng...
Nhạc vươn lên trời
Đời măng đang dậy
Thật là nói đủ tất cả hy vọng, trẻ trung, êm dịu của
một mùa xuân.
" Tả một cảnh thu ở núi rừng :
Non xanh ngây cả buồn chiều
Nhân gian nghe cũng tiêu điều dưới kia
" Xem chữ " ngây " nó nhẹ nhàng, thấm
thía biết bao. Không, mùa thu đến non xanh có buồn gì đâu ; non xanh chỉ thấy trời
buồn mà buồn lây mà thẩn thờ lây đấy thôi.
" Đại để chỉ đơn cử ngần ấy tỉ dụ kể cho hết
thì quá dài. Những chữ vừa trích ra đây trong tập " Lữa thiêng
" không phải ít. Đọc nó lên là thu được một cảm giác, thấy được một cử
động, nghe được một dư thanh. Thực là những chữ " thần tình ".
" Thơ Huy Cận nhờ thế mà trong như thuỷ tinh và
đẹp như ngọc thạch. Đọc Xuân Diệu thấy trong người sôi nổi ngọn trào lòng rào rạt
; đọc Huy Cận thấy trong người lâng lâng, tâm hồn khoan khoái. Trí phán đoán
sáng suốt mắt nhận xét tinh vi, cách dùng chữ thần tình. Đó là ba đặc điểm của
Huy Cận.
" Văn Huy Cận là một thứ văn chải chuốt ; tình
Huy Cận là một tấm tình đơn giản mà thấm thiết.
" Đừng thấy chàng buồn buồn mà cho chàng là người
lạnh nhạt hững hờ ; đừng thấy văn chàng chạm trổ quá mà cho là mất vẻ tự nhiên.
Huy Cận viết văn rất điêu luyện ; song không bao giờ để rơi những ý niệm của
mình. Bởi vậy khi đọc thơ Huy Cận ta thấy trong người nhẹ nhàng nhu khoái. Đã
lâu lắm từ ngày " Thơ thơ " ra đời đến nay mới lại có một tập thơ đã
khiến người phải đọc đến mà sinh vô hạn cảm tình với tác giả.
" Tập thơ " Lửa thiêng "là một tập
thơ rất đáng chú ý về tình cảm cũng như về văn pháp. Không cần so sánh cũng đủ
nhận thấy đó là một tập thơ hay và tác giả là một thi nhân có đặc tài. Trong
công cuộc xây đắp thi giới nước nhà, một tập thơ như thế là tất cả một sự gắng
công, và có lẽ là một công trình văn nghệ rất đáng chú ý nữa.
" Huy Cận hiện đang đi tới giữa chúng ta với một
tài hoa đương thời nảy nở. Tương lai của chàng chắc hẳn càng tốt đẹp và sáng lạn
hơn nữa.
" Lửa thiêng " ra đời, được hoan
nghênh nhiệt liệt, cái đó không phải nghi ngờ gì nữa. Nhưng phần thưởng đích
đáng nhất cho Huy Cận là tác phẩm của chàng sẽ được sống lâu (Lương An, Tràng
An, tháng 3 năm 1941, số 12).
Xuân
Tâm ca ngợi Xuân Diệu
Trên Tràng An số 405, 21-5-1939, 406, 24-5-1939,
Xuân Tâm phê bình thơ thơ của Xuân Diệu với lời lẽ rất to tát và coi " Thơ
thơ " là " một quyển sách để đầu giường " của ông :
" Như tôi đã nói, nghệ thuật của Xuân Diệu rất
lão luyện bên nhà thi sĩ có tài tâm hồn muôn điệu, lại có nhà thợ thơ tinh xảo,
có kinh nghiệm nhiều và nhất là rất tận tuỵ với nghề mình.
" Tuy lối thơ lục bát của Xuân Diệu không được
mềm dẽo và du dương như của Thế Lữ, nhưng trái lại lối thơ hoàn toàn mới với những
câu tám chữ và vần liên tiếp, hay lối thơ gồm có từng đoạn bốn câu hoặc tứ tuyệt,
hoặc thơ mới với vần song hành, lại rất xuất sắc.
" Đọc những bài Cảm xúc, Vì sao, Trăng,
Huyền Diệu, Yêu xa cách, Phải nói, Đây mùa thu tới, Hẹn hò, Vô biên, Tương tư,
Chiều, Với bàn tay ấy, và gần hết những bài khác, người ta thấy lời thơ chảy
song suốt từ đầu đến cuối, không bỡ ngỡ không khó đọc, mà rất dễ dãi. Lắm đoạn
vụt lên rất tự nhiên rất nhẹ nhàng, khiến ta thấy nó từ đáy hồn vụt ra như những
tia sáng.
" Những đoạn ấy nhiều lắm, không thể không chép
ra đây được, các bạn đọc qua cũng thấy, không phải tìm kiếm.
" Mà những đoạn thơ rất tự nhiên ấy có phải
Xuân Diệu phun ngay ra như thế đâu. Chính thi sĩ đã trao dồi rất công phu, sửa
đi sửa lại từng câu hay từng chữ nhỏ. Chính những bài thơ đã đăng ở báo Ngày
Nay hay Tinh Hoa rồi, mà nay in trên sách lại khác đủ tỏ rằng Xuân Diệu là một
người thợ thơ cần mẫn, biết thận trọng nghệ thuật, và khi nào cũng cố gắng đạt
được mục đích là sự hoàn mỹ.
" Ví dụ trong bài " Cảm xúc
", câu thứ sáu bây giờ :
Đây là bình Thu Hợp trí muôn hương
" Khi trước :
Đây là bình Thu Nhận trí muôn hương
" Chữ thu nhận chỉ có một nghĩa là thu vào mà
thôi nên kém chữ thu hợp, có nghĩa thu vào mà còn chung đục còn trộn lẫn với
nhau nữa.
" Trong bài " Đây mùa thu tới
", câu thứ 4, khi trước :
Với áo Chùng Thâm Mặt Dám Vàng ;
Bây giờ :
Với áo Mơ Phai Dệt Lá Vàng,
" Mùa thu mà có mặt thì cũng hơi kỳ thật. Chứ
áo của mùa thu dệt bằng lá vàng thì hợp lý và hay hơn nhiều.
Cũng trong bài ấy, câu thứ 13 khi trước :
Én bỏ từng không, Oanh bay đi.
Bây giờ :
Mây vẫn từng không, Chim bay đi.
" Mùa thu là mùa của chim én ở xa về bay lượn ở
đồng nội mà lại bảo nó bỏ từng không thì sai quá. Huống gì mấy chữ " mây vẫn
từng không " đã đúng mà còn may mắn hơn nữa.
" Không cần phải đưa ra nhiều, ba cái ví dụ
trên đây chứng thật một cách rộng rãi rằng Xuân Diệu trau dồi nghệ thuật rất
công phu.
" Bên nhà thi sĩ đặc sắc, bên nhà thợ thơ có
lương tâm ấy, lại thấy có đèo thêm một nhà họa sĩ. Xuân Diệu đã thấy " màu
hoa mới thắm như kêu " (Nụ cười xuân), đã thấy " sắc đỏ của màu
xanh " (Đây mùa thu tới). Phải có con mắt của họa sĩ mới thấy được
những tế nhị của màu sắc như vậy.
" Với những câu :
Lũ mây già, nghìn vạn khối lâm ly,
Đứng giữ lưới bủa vây trời nhỏ hẹp,
Vài chiếc quạ, Mình Thân cong Mỏ Thép,
Quạ vừa kêu, đến tự xứ đêm nào,
Những cây bàng là những bộ xuơng cao,
Nét ngớ ngẩn đã rèn bằng Sắt Cũ.
Tét cắn lá - lá nằm trên Đất Ủ,
Màu Lặng Yên không còn mộng xa ba ;
Đất Đen kêu như sắt dưới chân giầy
Tiếng rắn rỏi có pha màu Mực Đậm.
(Sắt)
Xuân Diệu đã vẽ ra một cảnh màu đông nếu tôi không lầm,
với những mùa chết, hay nói cho đúng hơn là màu đất và mùa tét. Những chữ
" sắt cũ ", " tét cắn lá ", " màu lặng yên ",
" Tiếng rắn rỏi pha màu mực đậm " làm ta thấy thật màu đỏ nâu
vàng úa của bàng, da bàng về mùa đông là mùa thay lá, và nhận thấy tác giả đã
biết hoà hợp tiếng màu để làm nên một cảm giác nặng nề mệt nhọc phảng phất
trong bài thơ từ đầu đến cuối.
" Nhà họa sĩ đã vẽ ra bằng thơ những bông hoa
xinh đẹp, đầy vẻ sống, linh hoạt một cách khác thường trong bài " Lạc
quan ", và hiến cho ta bức tranh tuyệt mỹ có cả tình cảm :
Một tối bầu trời dăm sắc mây,
Cây tìm nghiêng xuống nhánh hoa gầy,
Hoa nghiêng xuống, cỏ trong khi cỏ
Nghiêng xuống làn rêu một toi đầy.
Những lời huyền bí tảo lên trăng
Những ý bao la đủ xuống trần,
Những tiếng ân tình hoa bảo gió,
Gió đào thỏ thẻ bảo hoa xuân.
(Với bàn tay ấy)
" Đó là chưa nói đến mánh khóe nhà nghề mà nhà
thơ đã dùng để tả những ý tưởng của mình. Với hai câu :
...Và làm sai tơ nhịp trăng Đang,
Dịu Dàng Đàn những ánh tơ xanh.
(Trăng)
" thi sĩ đã được một điệu đàn bằng thơ.
" Với câu :
Những luồng Run Rẩy Rung Rinh lá.
(Đây mùa thu tới)
Xuân Diệu đã tả nổi cho ta nghe những lá run rẩy thật,
nhờ ở cách sắp khôn khéo và tìm tòi bốn chữ đi với nhau.
" Về cách dứt mạch câu (césure) Xuân Diệu cũng
tỏ ra mình nhanh nhẹn lắm. Khi đọc mấy câu :
Thong thả chiều vàng thong thả lại...
Rồi đi... Đêm xám tới dần dần...
Cứ thế mà bay cho đến hết
Những ngày, những tháng, những mùa xuân.
(Giờ tàn)
" ta tưởng như nghe cả chiều lại, đêm đi và
ngày tháng bay thật, nhất là câu cuối cùng, nhờ căÙt làm ba mạch nên đọc lên một
âm điệu đưa đẩy rất đầy đủ.
" Còn những hình ảnh (images) mới mẻ may mắn,
mà tôi đã nói rồi, và nhất là những chữ dùng rất ngộ nghĩnh, rất táo bạo mà
không bao giờ đến lỗ mãng, như Huy Thông, thì Xuân Diệu giầu lắm. Bất cứ bài
nào cũng có, và chính đó là những chấm đặc sắc nhất của thơ thi sĩ. Thành thử
khi ta đọc đi đọc lại càng thấy thấm thía thâm thuý mà không bao giờ chán.
" Sau hết tôi mách các bạn một cái đặc điểm mà
chỉ có một mình Xuân Diệu có, lối thơ ngây thơ và dễ yêu : Các bạn hãy nghe :
Ờ nhỉ ; sao hoa lại phải rơi ?
Mất...
Thực là dị quá - Mà tôi nữa :
Sao nhỉ làm chi chuyện lại phai ?
- Nếu không biết những câu thơ ấy của Xuân Diệu, người
ta hẳn phải cho là những lời ngây thơ của một thiếu nữ nào mới biết yêu và chưa
hiểu đời với những thống khổ là gì.
- Cùng một loại thơ ngây ngô ấy, bài " Đơn
sơ " hẳn là một tác phẩm bất hủ. Nó cám dỗ hồn ta với những chữ thông
thường, rất tự nhiên, và nhất là với vẻ " có duyên " của nó.
" Một thi sĩ giầu tình yêu, hiểu thấu đáo âm nhạc,
giầu tình cảm, giầu sức tưởng tượng, và có một nghệ thuật tinh vi như Xuân Diệu,
hẳn là một thi sĩ hoàn toàn nhất mà ta có đến bây giờ.
" Và quyển Thơ Thơtác phẩm hoàn toàn như
tác giả của nó là một quyển sách để đầu giường (livre de chevet) mà chẳng bao
lâu sẽ trở nên một người bạn thân ái của chúng ta.
" Phải chăng tôi đã xem Thơ Thơvới một tâm
hồn " rất bạn " của thi sĩ Xuân Diệu ? (Xuân Tâm, Tràng An,
21-5-1939, số 405).
Trên Tràng An số 494 (15-3-1940) H.X.T. khen nữ thi
sĩ Thu Hồng, tác giả Sóng Thơ :
" Tôi xin thú thật rằng đối với những tập thơ mới
xuất bản của nhiều thi sĩ thanh niên ta ngày nay, ngoài một vài người tôi đã
quen làm bạn, như ông Thế Lữ, ông Lưu Trọng Lư, ông Xuân Diệu, ông Huy Thông,
ông Thái Can, ông Huy Cận v....tôi thấy tôi lo sợ mỗi khi tôi cầm một tập thơ
mà xem. Lo sợ mà lại thấy lạnh lùng nữa. Không phải là tôi thờ ơ với thi ca mới
cũng không phải là tôi yên trí rằng nhiều thi sĩ thanh niên ngày nay không có
biệt tài trong sự làm thơ.
" Có lẽ vì tôi dành để quá nhiều thì giờ để xem
các thi ca xưa. Có lẽ là vì tôi thấy thi ca trong văn chương chúng ta hiện
đương trải qua một thời kỳ phân vân, về đường thể cách cũng như về đường lý tưởng,
làm cho độc giả chẳng biết lấy đâu mà căn cứ để suy nghĩ, để so sánh, chẳng biết
lấy thái độ nào mà thấu hiểu và cảm động theo cái thâm tứ của mỗi thi sĩ trong
mỗi bài thơ.
" Đối với quyển Sóng Thơmới ra đời, trước
hết tôi cũng lạnh lùng như vậy. Tôi cầm tập thơ nhỏ xinh kia, lật những trang
giấy nhanh chóng, rồi tự nói : Lại một tập thơ mới. Lại thi sĩ nữa ra đời. Mà
là một nữ thi sĩ, ở Đế Đô, một nguời trong Hoàng phái...Rồi tôi xem qua cũng
nhanh chóng như thế thấy câu hay, câu không hay ; nhưng không để ý lắm. Chẳng
khác lúc đi qua một vườn hoa của người xa lạ nhìn vào để ngắm cảnh rồi thản
nhiên trong giây lát đã bước qua vườn hoa ấy, và đôi mắt đã đưa nhìn khúc đường
xa lạ khác.
" Vậy là tôi đã xa lìa tập Sóng
Thơ, như tôi đã xa lìa nhiều tập thơ mới khác. Có lẽ tôi không nghĩ đến nữa,
nếu một sự tình cờ không xui giục tôi quay lại vườn hoa cũ, quay lại với Sóng
Thơ của nữ thi sĩ Thu Hồng.
" Một buổi hội họp tại nhà một ông bạn, tôi đã
được gặp nữ thi sĩ Thu Hồng, một thiếu nữ trẻ tuổi, và nói chuyện rất tự nhiên
và vui vẻ. Lẽ tự nhiên là nói chuyện " thơ ". Rồi trong câu chuyện, nữ
sĩ Thu Hồng đọc cho chúng tôi nghe một đoạn của một bài thơ nàng mới làm và
chưa in trong tập Sóng Thơ mới ra đời.
...Vì hiểu lầm nên mới mong đừng nên hiểu ;
Mong chán nản chớ len vào niên thiếu,
Chờ len vào sớm quá tội em mà,
Em nghe như thời ấy vẫn còn xa.
Em chầm chậm để mong còn xa mãi,
Hãy là hoa, xin hãy khoan là trái,
Hoa nồng hương, mà trái có khi chua...
" Đoạn thơ được nghe đó, cùng nhiều câu thơ
khác, của nữ sĩ Thu Hồng đọc ra hôm ấy, tôi thấy có ý vị, và có một sự giản dị
hoà với một âm điệu dịu dàng. Vì cái cảm tưởng hôm ấy nên tôi mới đọc lại tập Sóng
Thơ, bà Đạm Phương nữ sĩ có viết một câu phê bình rất ngắn, nhưng rất đúng
: Ngòi bút của Thu Hồng tuy chưa sành nghề cho lắm, nhưng có vẻ tự nhiên tao
nhã. Tôi xin thêm rằng : có vẻ giản dị và êm đềm tỏ ra một tâm hồn giầu cảm
tình, hay thổn thức với cảnh đẹp của tạo hoá, yêu văn chương, không hề oán hận,
không hề than van. Vì vậy thơ cô không phải là tiếng kêu gào của những tấm lòng
bị đau thương, không phải lời oán trách của những người ê chề, chán nản. Chỉ
như là những làn " sóng " dịp dàng uốn mình dưới một ngọn gió nồm
thanh thanh mà mát mẻ ; chỉ như những tiếng động rì rào trong lá.
Gió qua, lá động rì rào,
Khuya trăng chi chít muôn sao dệt trời.
" Không phải là cô không có lúc lo sợ hay buồn
bã. Nhưng sự lo sợ hay buồn bã của cô không bao giờ khốc liệt, có rồi rào cũng
vẫn êm đềm mà thôi.
Buồn ngày xưa em buồn thêm một chút...
Hoặc là :
Vì đâu thoi thóp với canh tàn ?
Rời rạc kia mây cũng muốn tan !
Tan tác lòng em bao mộng đẹp,
Cái tình vô hạn, khéo đa mang !
" Sự tan tác không phải tấm lòng của cô ; chỉ
là bao mộng đẹp mà thôi. Khối tình cô khéo đa mang, chỉ là " Cái tình vô hạn
", một mối tình mênh mông bát ngát, nó không chung đúc vào một người, một
vật nào, có thể làm đau đớn gắt gao được.
Vì vậy cho nên một tấm yêu,
Lui không nẻo bước, tới cam liều
Khi yêu nào nghĩ xa xôi nữa,
Mà khổ tình thêm cũng rất nhiều !
" Đối với ái tình, xem bốn câu thơ nầy, chúng
ta thấy nữ sĩ Thu Hồng, vẫn dùng lời êm dịu mà phân giải, mà nghị luận. Chúng
ta có thể nói rằng " thi cảm " của cô không phải là của người mê say
; nó còn ở trong vòng khuôn của lý trí nhiều hơn của tình cảm.
" Sự giản dị, một sự giản dị mà chúng ta có thể
gọi là tầm thường, cái " nên thơ " trong mỗi ý nghĩ hằng ngày trong mỗi
câu nói đầu lưỡi, trong mỗi cử chỉ xung quanh ta, trong mỗi tư tưởng thông thường,
ấy là chốn nữ sĩ Thu Hồng đã khéo đi lượm những vần thơ, đi hái cho ta những
cành hoa thơm đẹp.
" Đó là các đặc điểm, tôi sơ lược theo ý kiến
riêng của tôi viết ra sau khi đọc xong tập Sóng Thơ của nữ sĩ Tôn nữ
Thu Hồng. Tập thơ in đẹp, có tựa của Đạm Phương nữ sĩ, và tranh vẽ bìa của nữ họa
sĩ Mộng Hoa.
" Chúng tôi xin giới thiệu quyển Sóng
Thơ với độc giả (H.X.T., Tràng An, 15-3-1940, số 494).
Trên mặt báo Ngày Nay, từ năm 1938 trở đi, Xuân Diệu và Thế Lữ phê bình thơ rất
nhiều. Cũng như báo Tràng An, báo Ngày Nay hình như cũng đã xoá bỏ chữ cũ mới
trong khi nói đến thơ. Đặc biệt là Thế Lữ trong mục " Tin Thơ
" đã chỉ phê bình thơ như là thơ, bởi vậy, rất nhiều bài thơ cũ được
ca ngợi và bài thơ mới bị công kích, cũng như vô vàn bài thơ mới được khen lao
và bài thơ cũ bị chê bai.
Cuộc tranh luận thơ mới thơ cũ như vậy là đã đi hẳn
vào lịch sử. Qua cuộc tranh luận kéo dài có hằng mười năm, chẳng những làng thơ
mới hăng say thảo luận mà ngay đến làng thơ cũ cũng bỏ cái thói quen dè dặt, thẳng
thắn bày tỏ và bênh vực lập trường. Chẳng những thi ca mà cả nền văn học Việt
Nam, nhờ vậy, đã tiến rất mạnh mẽ.
MỤC
LỤC
* TẠI SAO XUẤT BẢN
** MẤY LỜI NÓI ĐẦU
Chương I : ĐẶC TÍNH CHUNG THẾ HỆ 1932
Mười một lý do khai mạc thế hệ mới :
Những biến động chính trị
Việc Bảo Đại hồi loan
Những cải cách của Nội các Bảo Đại
Đời sống xé rào của vị vua trẻ
Bế mạc thế hệ cũ và xuất hiện thế hệ mới
Nhiều báo mới ra đời
Sự ra đời của Phong Hoá và Tự Lực Văn Đoàn
Kỹ thuật mới của báo Phong Hoá
Phong Hoá đả kích thế hệ đàn anh
Phong Hoá đả kích tất cả báo chí đương thời
Phong Hoá đả kích lý tưởng văn hoá thế hệ trước
Chương trình cải cách của Tự Lực Văn Đoàn
Sự xuất hiện nhiều cuộc bút chiến
Sự xuất hiện những tiểu thuyết mới
Sự xuất hiện thơ mới
Sự xuất hiện một thế hệ mới
Các hiện tượng Văn học vừa bế mạc
Các hiện tượng Văn học vừa khai mạc
Chương II : NÓI CHUNG VỀ PHÊ BÌNH VĂN HỌC
Từ ngữ Nghệ thuật
Từ ngữ Văn chương
Từ ngữ Văn học
Từ ngữ Phê bình Văn học
Từ ngữ Văn học sử
Sự khác biệt của Phê bình Văn học và Văn học sử
Các trường pái phê bình
Trường phê bình cổ điển
Trường phê bình lãng mạn
Trường phê bình khách quan
Trường phê bình ấn tượng
Trường phê bình sáng tạo
Trường phê bình triết học
Trường phê bình duy vật
Trường phê bình bác học
Kỹ thuật và công tác phê bình
Phê bình một tác phẩm dĩ vãng
Nghiên cứu trạng thái bên ngoài của tác phẩm
Tìm ra tác giả
Tìm thời điểm sách ra đời
Nghiên cứu sự thành hình tác phẩm
Tìm hiểu ý tưởng chỉ huy
Tìm cách bố cục tác phẩm
Tìm hiểu công việc trình bày tác phẩm
Kiểm điểm tài liệu
Phê bình một tác phẩm quen biết nhiều
Phê bình nhà văn bậc hai, bậc ba
Phê bình tác phẩm hiện đại
Phải biết chung cả sự nghiệp nhà văn
Phải biết chung về văn học nhiều ít đồng thời với tác phẩm được phê bình
Phải biết tổng quát về văn học
Phê bình một thời đại
Viết Văn học sử
Chương III :
SINH HOẠT PHÊ BÌNH VĂN HỌC THẾ HỆ 1932
Đặc tính khối A, tức khối Cựu Học
Đặc tính khối B, tức khối Cấp Tiến
Đặc tính khối C, khối chống Phong Hoá
Đặc tính khối D, khối Mác Xít
Chương IV :
MƯỜI VỤ ÁN VĂN HỌC THẾ HỆ 1932
Vụ án BÁO CHÍ
Vụ án CŨ và MỚI
Vụ án PHAN KHÔI - TRẦN TRỌNG KIM
Phan Khôi phê bình Nho giáo
Trần Trọng Kim trả lời Phan Khôi
Phan Khôi viết bài cảnh cáo các nhà học phiệt
Phan Khôi mời Trần Trọng Kim đến chơi nhà
Mr Logique
Trần Trọng Kim mời Phan Khôi trở về nhà học ta mà nói truyện
Vụ án TẢN ĐÀ - PHAN KHÔI
Phan Khôi công kích " Cái cười của Con Rồng
Cháu Tiên "
Phan Khôi công kích Tống Nho
Tản Đà khai chiến với Phan Khôi
Nguyễn Tiến Lãng đả kích Phan Khôi
Vân Bằng đả kích Phan Khôi
Vụ án QUỐC HỌC
Lê Dư đặt vấn đề Quốc Học
Trịnh Đình Rư bác lý thuyết về Quốc Học của Lê Dư
Phạm Quỳnh bày tỏ lập trường ủng hộ Trịnh Đình Rư
Phan Khôi công kích Phạm Quỳnh
Phan Khôi luận về Quốc Học
Phạm Quỳnh luận về Quốc Học
Lê Dư trả lời cả Phạm Quỳnh lẫn Phan Khôi
Nguyễn Trọng Thuật giàn hoà
Phan Khôi chống sự giàn hoà của Nguyễn Trọng Thuật
Vụ án THƠ CŨ - THƠ MỚI
Phạm Quỳnh chê thơ Đông Phương
Phan Khôi chê thơ cũ trên Đông Pháp
Nguyễn Văn Vĩnh và bài thơ Con Ve sầu và Con Kiến
Trịnh Đình Rư công kích thơ Đường
Phan Khôi kịch liệt đả kích thơ cũ và đề nghị cải cách : làm bài thơ Tình
Già
Lưu Trọng Lư hưởng ứng thơ mới
Các phe bênh thơ cũ
Các phe bênh thơ mới
MẶT TRẬN BÊNH THƠ MỚI
Phong Hoá bênh Thơ Mới
Việt Sinh chê thơ cũ
Tứ Ly chế diễu Tản Đà
Tứ Ly chế thơ cũ trong vở kịch " Tuồng cổ Tân thời "
Tứ Ly chế thơ cũ trong hài kịch " Hội nghị Văn học "
Nhất Linh công kích thơ cũ
Nguyễn Tường Bách công kích thơ cũ
Tứ Ly tính sổ văn học để ca ngợi thơ mới
Ngộ Không phê bình Nguyễn Văn Hanh
Ngộ Không tường thuật cô Kiêm diễn thuyết bênh thơ mới
Thạch Lam tường thuật cô Kiêm diễn thuyết bênh thơ mới
Lê Ta tường thuật cô Kiêm diễn thuyết bênh thơ mới
Nguym tường thuật cô Kiêm diễn thuyết bênh thơ mới
Lê Ta tường thuật cô Kiêm diễn thuyết bênh thơ mới
Lê Ta phê bình tập thơ " Những bông hoa trái mùa "
Nhị Linh công kích nhà thơ mới Đỗ Đình Vượng
Thạch Lam chửi thơ mới của Phan Văn Kỳ
Lê Ta phê bình thơ mới của Đức Văn
Lê Ta phê bình thơ mới của Nguyễn Vỹ
An Điểm phê bình thơ mới trên Phụ Nữ Tân Văn
Thạch Lam phê bình thơ mới của Hồ Văn Hảo
Cô Nguyễn Thị Kiêm bênh thơ mới
Phụ Nữ Tân Văn bênh thơ mới
Huấn Minh ca ngợi thơ mới của cô Kiêm
Chủ nhiệm Phụ Nữ Tân Văn ca ngợi thơ mới
Tác giả L.Đ ca ngợi thơ mới
Lưu Trọng Lư ca ngợi thơ mới
Nguyễn Thị Kiêm ca ngợi thơ mới
Phan Văn Hùm phê bình nhà thơ Xuân Giang, tức Đông Hồ
Đông Hồ lên tiếng trả lời Phan Văn Hùm, tự nhận là Xuân Giang
Lưu Trọng Lư ca ngợi thơ mới
Lưu Trọng Lư gửi thơ thứ nhất cho Tản Đà
Lưu Trọng Lư gửi thơ thứ hai cho Tản Đà
Hoài Thanh ca ngợi thơ mới trên T.T.T.B.
Văn Thức trên báo Loa ca ngợi thơ mới
Lê Tràng Kiều tính sổ thơ mới
Lê Tràng Kiều ca ngợi Thái Can
Lê Tràng Kiều ca ngợi Nguyễn Nhược Pháp
Lê Tràng Kiều ca ngợi Đông Hồ
Lê Tràng Kiều ca ngợi Nguyễn Vỹ
Lê Tràng Kiều ca ngợi Thế Lữ
Lê Tràng Kiều ca ngợi Vữ Đình Liên
Lê Tràng Kiều ca ngợi Lưu Trọng Lư
MẶT TRẬN THƠ CŨ
Thái độ chung các nhà thơ cũ
Chất Hằng đả kích thơ mới của Phan Khôi
Thương Sơn bênh thơ cũ
Động Đình đả thơ mới
Tùng Lâm Lê Cương Phụng đả kích thơ mới
Hoàng Tân Dân chê thơ mới phản động
Đẩu Tiếp chê thơ mới
Tản Đà lần đầu tiên lên tiếng về thơ mới
Văn giới đối với cái chết của Tản Đà
SỰ TRƯỞNG THÀNH CỦA THI CA VIỆT NAM
Lưu Trọng Lư đặt giá
trị đích thực của thơ không phân biệt mới cũ
Hán Quỳ ca ngợi Thế Lữ, Huy Thông, Nhược Pháp
Xuân Phương ca ngợi tập Xác Thu của Hoàng Điệp
Xuân Phương ca ngợi Hận Chiến Trường của Thanh Tịnh
Xuân Phương ca ngợi Điêu Tàn của Chế Lan Viên
Lương An ca ngợi Lửa Thiêng của Huy Cận
Xuân Tâm ca ngợi Xuân Diệu