Thứ Sáu, 23 tháng 5, 2014

Luật thơ song thất lục bát

Thơ song thất lục bát

 

1.    Định-nghĩa:

                     Thơ song thất lục bát là thể thơ thuần tuý của người Việt-nam. Bài thơ bắt                         đầu bằng hai câu bảy chữ, kế tiếp câu sáu chữ và chấm dứt bằng câu tám                         chữ.

Thí dụ:

Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu,

                    Hỏi ngày về, ước nẻo quyên ca.

                    Nay quyên đã giục oanh già,

Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo

(Chinh phụ ngâm khúc - Đoàn Thị Điễm?)

 

2.    Cách gieo vần:

 Chữ cuối của câu bảy thứ nhất phải vần với chữ thứ 5 của câu bảy thứ hai và đều là vần trắc.

Chữ cuối của câu bảy thứ hai phải vần với chữ cuối của câu lục (sáu chữ), đều là vần bằng.

Chữ thứ 6 của câu lục chữ phải vần với chữ thứ 6 của câu bát (8 chữ), đều là vần bằng và chữ thứ 8 của câu bát phải vần với chữ thứ 5 của câu thất (7 chữ) thứ nhất của khổ tiếp theo, đều là vần bằng

 Thí dụ:

 Trải vách quế gió vàng hiu hắt,

Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng,

Oán chi những khách tiêu phòng

Mà xui phận bạc nằm trongđào


Duyên đã may cớ sao lại rủi

Nghĩ nguồn cơn dở dói sao đang

Vì đâu nên nỗi dở dang

Nghĩ mình mình lại thêm thương nỗi mình

(Cung oán ngâm khúc - Nguyễn Gia Thiều)

 

3.    Luật bằng trắc:

                 Vần bằng (B) gồm những chữ có dấu huyền hay không dấu.

Vần trắc (T) gồm những chữ có dấu sắc, dấu hỏi, và dấu ngã.

Theo đúng luật thì ngoại trừ chữ thứ nhất của câu song thất; còn các chữ còn lại của câu bảy chữ, câu lục và câu bát phải như sau:

XTTBBTT

XBBTTBB

BB TT BB

BB TT BB TB

 Thí dụ:

 Cầu thệ thủy ngồi trơ cổ độ

X     T     T      B    B    T  T

Quán thu phong đứng rũ tà huy

 X        B     B       T      T  B  B

Phong trần đến cả sơn khê

  B         B    T    T   B     B

Tang thương đến cả hoa kia cỏ này

  B        B         T    T   B   B   T   B

 (Cung oán ngâm khúc - Nguyễn Gia Thiều)

 Vì đúng luật rất là khó nên nhà thơ chỉ theo luật cho chữ thứ ba, thứ năm và thứ bảy cho câu song thất; còn câu lục bát thì theo lệ “Nhất Tam Ngũ bất luận, Nhì Tứ Lục phân minh” nghĩa là chữ thứ nhất, chữ thứ ba, chữ thứ năm không cần đúng luật và chữ thứ hai, chữ thứ tư, chữ thứ sáu và chữ thứ tám phải theo đúng luật.

 

 X X T X B X T

 X X B X T X B

 X B X T X B

 X B X T X B X B

 

Thí dụ:

 Mười ba số nghĩ suy đếm kỹ

         X    X    T        B    X    T

Ngày thuyền trôi đến chỉ Bình Tuy

         X         X       B     X    T     X    B

Ước mong chưa được cái gì

       X      B       X      T      X    B

Lại mang vạ đến một khi lạc đường

        X    B        T     X    B   X    B    

         ( Hành trình tự do - Trần-Lâm Phát)


Ngoài ra nếu hai câu bảy chữ sóng nhau (đối hay không đối) thì chữ thứ hai và chữ thứ ba của câu bảy thứ nhất có thể chuyển từ TT ra BB

                     Thí dụ hai câu đối nhau:

                     Chàng thì đi cỏi xa mưa gió

                    Thiếp lại về buồng cũ chiếu chăn

(Chinh phụ ngâm khúc - Đoàn Thị Điễm?)

 

Thí dụ hai câu không đối nhau:

 

Chàng thì đi vào nơi gió cát

Đêm trăng này nghĩ mát phương nao?


4.            Họa:

 Hoạ thơ song thất lục bát cũng giống như họa thơ lục bát

 4.1 Vần:

Bài họa phải theo những nguyên tắc sau đây:

Những chữ sau đây của bài họa phải dùng đúng chữ của bài xướng

·       Hai câu song thất: chữ thứ nhất, thứ 5 và thứ 7

·       Câu lục: chữ thứ nhất và chữ thứ 6

             ·       Câu  bát: chữ thứ nhất, thứ 6 và thứ 8 

·       Chữ thứ 8 câu 8 cuối bài họa không phụ thuộc vào vần câu 6 ở trên.

Bài họa không được dùng những chữ của bài xướng:

·       Câu 7: chữ thứ 4 và chữ thứ 6

·       Câu 6 : chữ thứ 5

·       Câu 8: chữ thứ 5, chữ thứ 7

Tuy nhiên vì quá  khó nên người họa chỉ dùng những chữ thứ 6 và thứ 8 của bài xướng và  chữ thứ 6  câu 8 thì có thể họa vần, không bắt buộc phải dùng chữ của bài xướng. 

          4.2 Ý:

Không nhất thiết phải theo ý của bài xướng

Không nên gượng ép theo sát chữ của bài xướng

 Virgina, ngày 28 tháng 9 năm 2007

Trần-Lâm Phát