Thứ Sáu, 28 tháng 4, 2017

78 NĂM ‘‘ĐÂY THÔN VĨ DẠ’’ của GS Lê Đình Thông

Kim Nguyên đoạt giải đàn tranh năm 1984

Tuổi đời của ‘‘Đây Thôn Vĩ Dạ’’ cũng xấp xỉ 80. Theo Nguyễn Bá Tín[1], vào năm 1939, cô Hoàng Thị Kim Cúc gửi từ Huế cho Hàn Mặc Tử tấm hình nàng mặc áo lụa trắng, chụp ở thôn Vĩ. Nhà thơ đáp lễ bẳng bài thơ ‘‘Đây Thôn Vĩ Dạ’’:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...
Thuyền ai đậu bến sông Trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?

Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra...
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?

‘‘Đây Thôn Vĩ Dạ’’ làm theo thể thơ mới 7 chữ, gồm ba khổ. Khổ đầu hiệp vận gián cách, khổ 2 và 3 : gieo vần cuối câu đầu và cuối các câu chẵn. Cách bố cục khá chặt chẽ, giống như thơ Đường : Khổ 1 phá đề và thừa đề, khổ 2 : thực luận, khổ 3 : kết lại cả bài. Bài thơ được coi là một tuyệt tác của phong trào thơ mới. Sau đây, chúng tôi ghi lại một số cảm nhận vụn vặt, riêng tư về bài thơ.   
Trước khi nói về tác phẩm, thiết tưởng cũng nên nói khái quát về thơ. Poetry/poésie trong các ngôn ngữ tây phương do cổ ngữ hy lạp ποίησις hoặc động từ ποιεῖν đều có nghĩa là sáng tạo. ‘‘Đây Thôn Vĩ Dạ’’ đổi mới không những về ngôn ngữ, mà còn vẽ nên bức tranh quê, điểm xuyết bằng nốt nhạc sầu. Với bài thơ này, Hàn Mặc Tử không chỉ là thi nhân mà còn là họa sĩ nữa. Nào ta cùng thưởng ngoạn bức tranh của Hàn Mặc Tử, trước khi trở về với cõi thơ.

Khổ 1 là bức tranh màu xanh, khiến ta liên tưởng bức họa Le Paysage Bleu của Marc Chagal. Màu xanh trong khổ đầu là toàn bích, vì có ‘‘nắng lên’’ từ biển Đông. Nhà danh họa Caspar David Friedrich (1774-1840), khuynh hướng hội họa lãng mạn, dùng chất liệu ‘‘nắng mới lên’’ (les rayons naissants du soleil) để thực hiện bức vẽ sơn dầu ‘‘Thiếu phụ Nắng sớm’’ (Femme au soleil du matin). Trong thơ Hàn Mặc Tử, thiếu phụ nắng sớm hóa thân Hoàng Cúc. Nắng sớm là ánh sáng tâm lý, nói lên niềm ước mong mới mẻ. Nắng sớm còn được thể hiện trong hội họa, bảng màu (palette) pha trộn màu phấn vương nhẹ. Nắng chuyển màu sắc sáng dần. Với câu 3, ta có thang màu lũy tiến (échelle de couleur progressive) như sau :
mướt  →  xanh →  ngọc
Màu xanh ngọc bích là tuyệt phẩm của trời đất ban cho cõi nhân gian ở thôn Vĩ Dạ. Trong bức họa, Hàn Mặc Tử vẽ hàng cau theo chiều dọc. Bố cục họa phẩm còn cần thêm một chiều ngang. Vì vậy mới có câu thơ : lá trúc che ngang. Che ngang cho thấy người thiếu nữ e ấp, núp sau cành trúc, có khuôn mặt chữ điền. Đây cũng là một nét chấm phá mới, vì sau hai chiều dọc - ngang, còn cần thêm một hình vuông nữa. Theo quan niệm của người xưa, người con gái có khuôn mặt chữ điền thường đoan trang, thùy mị. Qua câu thơ, Hàn Mặc Tử muốn phác họa nét tinh anh (portrait moral). Khổ 3 có thêm vầng trăng là tuổi trăng tròn của thiếu nữ.

Khổ thơ thứ 2 không còn nắng lên, mà là màn đêm buông xuống ; gió và mây chia lìa hai lối khiến dòng nước buồn lây, hoa bắp lay động ngẩn ngơ. Bến sông Trăng (viết hoa) là bến ngự, niềm mong ước chở trăng hẳn là dang dở, chỉ hoài công dã tràng.

Trong khổ 3, bảng màu chuyển qua sắc trắng của tà áo. Nếu trong khổ 1, màu sắc là lũy tiến gồm 3 cấp độ, bảng màu của khổ 3 vẫn gồm 3 cấp độ, nhưng cứ nhạt dần đi :
Sương <- Khói <- Mờ

Màu sương tuy đục nhưng còn thấy được. Đến làn khói bay đã là hư ảo. Sau cùng chỉ còn là đám bụi mờ.
Với bức họa chuyển cảnh từ nắng sớm đến đêm tàn, ta tạm khép lại mảng hội họa trong thơ Hàn Mặc Tử đế bước qua lãnh vực ngôn ngữ.
Trước hết là cơ cấu của bài thơ (structure du poème). Bài thơ gồm 3 khổ. Cơ cấu như sau :
(khổ 1) : thực → (khổ 2) : mộng → (khổ 3) : ảo
Ba khổ thơ là sự chuyển biến từ thực đến mộng, từ động đến tĩnh, từ ngoại cảnh đến nội tâm, được diễn tả bằng màu sắc, thanh âm, bằng ngôn ngữ và bằng cả các dấu chấm (ponctuation).

Về mặt hội họa, trong mỗi khổ thơ, thi nhân chọn cho mình ba thang màu (gamme de couleurs) khác nhau. Về cách chấm câu, ba khổ thơ là ba dấu hỏi :

- Khồ 1 (câu 1) : Sao anh không về thăm thôn Vĩ ?
- Khổ 2 (câu 4) : Có chở trăng về kịp tối nay ?
- Khổ 3 (câu 3) : Ai biết tình ai có đậm đà ?

Ta sẽ bàn cách sử dụng từ ngữ (champs lexicaux) của nhà thơ. Ở đây, có thể đặt chung một câu hỏi cho cả ba vế nói trên: thi nhân hỏi mà không phải là hỏi. Các câu hỏi chỉ nói lên sự trăn trở, khắc khoải của ‘‘khách đường xa’’.
- Câu hỏi trong khổ đầu : tuy vẫn biết thôn Vĩ là thiên thời (nắng mới lên), là địa lợi (vườn cau), có cả nhân hòa (mặt chữ điền), nhưng làm sao nhà thơ có thể bỏ trại phong để về thăm ?
- Vầng trăng trong khổ 2 là ảo ảnh, không khác gì vầng trăng Lý Bạch:
Rằng hay thì thật là hay,
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào.
- Cuối khổ 3 chỉ còn là nghi vấn. Trong khổ cuối, nhà thơ thổ lộ nỗi buồn đau, thất vọng. Musset cho rằng ‘‘Sự thất vọng chua cay nhất là bài ca đẹp tuyệt vời’’.
‘‘Đây Thôn Vĩ Dạ’’ còn là lưu thủy hành vân của cổ ca đất Thần Kinh. Bài thơ Art poétique của Verlaine mở đầu bằng đôi vần thơ nói lên nghệ thuật thi ca :
De la musique avant toute chose,
Et pour cela préfère l'Impair.

Đây Thôn Vĩ Dạ hội đủ hai yếu tố vừa kể. Cũng vì thơ vần lẻ, Đây Thôn Vĩ Dạ là bài thơ 7 chữ (lẻ), 3 khổ (lẻ).
Còn về nhạc tính (musicalité) thì sao ? Sau đây là mấy vần thơ, như những nốt nhạc, trong bài Đây Thôn Vĩ Dạ :
- nắng / nắng :
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
- gió / gió, mây / mây :
Gió theo lối gió, mây đường mây.
- lối / đường :
Gió theo lối gió mây đường mây.
- Trăng (viết hoa) / trăng :
Thuyền ai đậu bến sông Trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay.
- Khách đường xa / khách đường xa :
Mơ khách đường xa khách đường xa
- ai / ai / ai :
Thuyền ai đậu bến sông Trăng đó
Ai biết tình ai có đậm đà.
Về thể văn (style), nhà thơ sử dụng nhiều ẩn dụ (métaphore) : mây và gió chia lìa hai lối, dòng nước để chỉ sự vô thường, con thuyền là chữ tâm (: ngoài ba chấm, phần còn lại giống như con thuyền), hoa bắp lay vì ‘‘người buồn cảnh có vui đâu bao giờ’’, nhân ảnh nói lên kiếp sống phù du, ‘‘mờ mờ nhân ảnh’’.
Ngôn ngữ trong bài thơ đều rất quen thuộc. Đây cũng là dụng ý của nhà thơ, muốn diễn tả cái đẹp chỉ bằng nét hồn nhiên, giản dị. Trong 12 câu thơ, tác giả dùng chữ ‘‘anh’’ và chữ ‘‘em’’, mỗi chữ một lần. Câu thơ cuối bài, tác giả viết hai lần một chữ ai:
Ai (1) biết tình ai (2) có đậm đà ?
Thông thường, ai (1) là thiếu nữ, ai (2): thi nhân. Nhưng ai (1) cũng thể là người xem thơ, ai (2) là nhà thơ. Nếu thời gian của ý nghĩa nguyên thủy là hiện tại, thời gian của sự suy diễn sau này hướng về tương lai. Ai cũng biết ý tứ trong thơ Hàn Mặc Tử bóng bẩy mà thâm trầm, giản dị mà sâu thắm. Sự đậm đà của bài thơ gợi ý cho chúng tôi làm 5 bài thơ lấy ý từ lau sậy, vì thôn Vĩ Dạ là sự biến âm của Vi Dã Thôn. Hình thức của cả 5 bài là thơ mới 7 chữ. Cấu trúc vẫn gồm 3 khổ, mỗi bài khai triển ý nghĩa khác nhau của lau lách. Năm bài thơ nói lên sự ‘‘đậm đà’’ của người thơ, nét phong phú của ý thơ, thể hiện qua bài Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử. Năm bài thơ, như 5 biến điệu (variation) trong âm nhạc, như sau :
Paris, tiết Thanh minh Đinh dậu 2017
GS.Lê Đình Thông


Vi Dã Thôn (kỳ 1)
葦 野 村 (期 一)
Hồn Lau
葦魂

白居易

Tầm Dương giang đầu dạ tống khách,
Phong diệp địch hoa thu sắt sắt.
Chủ nhân há mã khách tại thuyền,
Cử tửu dục ẩm vô quản huyền.
Bạch Cư Dị

Hương giang soi bóng bờ lau lách
Thôn vắng thưa người cảnh tịch liêu
Hàng sậy đong đưa dường oán trách
Lau nghiêng bông trắng sậy tiêu điều.

Xuôi ngược dòng đời vẫn cuốn trôi
Lau soi hình bóng sậy bồi hồi
Sỏi trắng chìm sâu trong đáy nước
Mây chiều trôi dạt chốn xa xôi.

Thôn Vĩ  (1) hàng cau vẫn mướt xanh
Lá trúc thôn đoài dáng mỏng manh
Câu hò mái đẩy xàng xê cống
Thuyền ngự xuôi dòng lướt sóng nhanh.

Thôn Vĩ làng thôn mái tóc mai (2)
Trinh nguyên tà áo phất phơ bay
Quang gánh đong đầy bao nỗi nhớ
Nhớ mãi cố nhân chẳng nhạt phai.

Paris, ngày 18/04/2017
GS.Lê Đình Thông

(1) Thôn Vĩ Dạ là biến âm của Vi Dã Thôn.
Vi (): cỏ lau. Dã (野): ngoại thành, cánh đồng.
(2) Tóc mai sợi ngắn sợi dài
Lấy nhau chẳng đặng thương hoài nghìn năm.
Ca dao
Vi Dã Thôn (kỳ 2)
葦 野 村 (期二)
Trầm Tư
沈 思


L’homme n’est qu’un roseau, le plus faible de la
nature, mais c’est un roseau pensant. Blaise Pascal



Lau nghiêng cành biếc bên thôn Vĩ
Ra dáng đăm chiêu nghĩ vẩn vơ
Nắng chiều óng ả đầy thi vị
Bên bờ sông vắng lặng như tờ.

Nhớ non nhớ nước vần thơ ngắn
Ngõ hẻm thôn làng cuộc biển dâu  
Áo trắng năm xưa còn lận đận   
Sỏi chìm đáy nước cũng sầu đau.

Lau lách thân mình quá mảnh mai
Bông lau là kiếp sống hình hài
Lau lách chấm mực bờ nước biếc
Niềm đau chôn dấu viết giùm ai.

Paris, cuối tháng Tư 2017
GS.Lê Đình Thông

Vi Dã Thôn (kỳ 3)
葦 野 村 (期 三)
Ngũ Âm
五音

Il y a de la musique dans le soupir du roseau ;
Il y a de la musique dans le bouillonnement du ruisseau ;
Il y a de la musique en toutes choses, si les hommes pouvaient l'entendre.
Lord Byron

Hương giang bến cũ bờ lau lách
Gió cuốn nghe như tiếng thở dài
Lưu thủy hành vân lời oán trách
Lau lách đìu hiu vắng gót hài.

Bờ lau mà tưởng khúc tiêu dao
Nghìn trùng nhung nhớ trúc lao xao
Ngón luyến song thanh làn gió mát
Cung thương nhịp gõ nhấn duyên trao

Dòng nước lặng thinh nghe tiếng than
Ngón vuốt đàn tranh lệ mấy hàng
Bờ lau lay lắt vi vu mãi
Sơn ca chim chíp lúc chiều tàn.
GS.Lê Đình Thông

Vi Dã Thôn (kỳ 4)
葦 野 村 ((期 四)
Quốc Sử
國 史



Le roseau plie, et ne romps pas.
Résisté sans courber le dos.
Jean de La Fontaine


威武不能屈, 此之谓大丈夫.
(Uy vũ bất năng khuất, thử chi vị đại trượng phu)
Mạnh Tử

Nghiên bút cỏ lau chỉ một lòng
Cường quyền gieo bão tố cuồng phong
Lau lách đảo điên không gục ngã
Ngòi bút không cong vẫn thẳng băng.

Bờ ao lau mọc lách ven sông
Lau lách mọc trên nước với non
Bạo quyền cai trị không lâu nữa
Chỉ riêng non nước mới trường tồn.

Dưới nước trên trời chẳng có quan
Nét mực vàng son viết thẳng hàng
Trang sử hào hùng nòi giống Việt
Cả nước một lòng đuổi ngoại bang.

GS.Lê Đình Thông

Vi Dã Thôn (kỳ 5)
葦 野 村 (期 五)

Tâm Cảnh
心 境

Chênh chênh bóng ngả sầu lau lách,
Chiều ngái hương rừng, lối nhạt son.
Nguyễn Bính

Hồn thơ lận đận nơi cung Quế
Thôn Vĩ chiều hôm lạc lối về
Cau vắng trầu xanh sầu cúc huệ
Nắng sớm biển Đông có vẹn thề ?

Mây giăng núi Ngự gió Kim Long
Bờ lau hiu hắt liễu vời trông
Thuyền xuôi bến vắng qua Gia Hội
Có vớt trăng vàng dưới đáy sông ?

Mờ mịt sương mù áo trắng bay
Chập chờn hạc trắng cuối chân mây
Chợt nhớ thôn xưa là tâm cảnh
Bờ trúc xanh màu có đổi thay ?

Paris, ngày 20/04/2017
Lê Đình Thông

Những bài giảng về bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ:



[1] Theo Nguyễn Bá Tín, em ruột nhà thơ Hàn Mặc Tử, thì: Năm 1939, Hoàng Cúc nhận được hung tin nói trên từ Hoàng Tùng Ngâm. Nàng chuẩn bị một số tiền định gửi cho Hàn Mặc Tử uống thuốc nhưng không dám gửi. Nàng bèn gửi cho Hàn Mặc Tử một bức ảnh chụp cảnh nàng mặc áo lụa dài trắng đứng dưới vòm cây xanh mát. Nhận được ảnh, Hàn Mặc Tử rất vui. Chàng liền làm ngay bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ gửi ra Huế cho Hoàng Cúc